MỘT ĐỜI MÂY- MỘT ĐỜI NGƯỜI
Nhìn mây phiêu bồng trên trời cao có bao giờ ta lẩn thẩn nghĩ không biết mây từ đâu tới và sẽ đi về đâu? - Nhởn nhơ bay hay theo gió về tít phương trời?
Nhiều lần mây thảnh thơi nhẹ nhàng ngắm thiên nhiên lướt qua dưới tầm nhìn rồi cảm thấy vô cùng hạnh phúc: được là mây!?
Nhưng thực sự mây nặng nước trong lòng và...chỉ một cơn gió lạnh hay bất chợt không kềm lòng vút lên cao mây sẽ rùng mình vì lạnh, hoảng hốt và ...sa mưa!
Trút bỏ lòng trĩu nước, nhìn cảnh vật dưói chân mình vui tươi tắm mát, rữa sạch bụi buồn phiền, cây cối hớn hở vươn mình, đơm hoa kết trái.."Mình tắm mát ' tẩy trần' nhân gian đó phải không?". Mà vui..
Và nước mưa cuồn cuộn chảy, lách mình qua khe núi, ra suối ra sông...không hoài công đem sức sống về đồi nương, về đồng bằng... cho vạn vật sinh sôi...mà hạnh phúc..
Mưa cũng âm thầm ngấm vào đất, kham nhẫn tìm một lớp cát dưới sâu để lắng đục và đem sự sạch trong cung cấp sự sống cho muôn thú, muôn người..mà tâm mãn nguyện..
Mây đã chuyển kiếp thành mưa đem nước ra suối ra sông và ra biển cả...
Mây có nhớ cội nguồn và người bạn đồng hành muôn thuở là ánh sáng, là gió, là mặt trời giúp mây thoát bao gian nan vui chơi dong rũi hay dâng hiến mà hạnh phúc hay trầm luân(?),để điều hòa muôn loài sinh sôi tồn tại-và thoát chớp mắt, hoàn tất nhiệm vụ một đời; mây trở thành Mây....
Có bao giờ bạn ưu tư: ta từ đâu tới và sẽ về đâu?
Duyên kiếp nào đưa ta có mặt trên đời này: những tháng ngày trẻ trung vô tư nhẹ nhàng ' nhảy chân sáo' đón niềm vui, và học tập, học mãi học mãi bao điều tưởng đã quen mà vẫn lạ lẫm với bao va vấp, bao ưu phiền hờn ghen. Đôi lúc co mình lại, cả đời tập kham nhẫn như nước ngầm để trui rèn, để 'lắng đục tìm trong' mong một ngày thoát trầm luân về bầu trời bao la đang vẫy gọi ...
Thoăn thoắt như mây bay
Mây phiêu bồng một đời
Người phiêu bạt bao kiếp
Muôn đời học mãi bài: tìm chân lý
Phải vậy không?!?!
04/4/25
|
NHỚ VỀ MỘT BỜ LAU
Đôi khi có dịp ngồi ở bờ sông nhìn ghe tàu xuôi ngược tôi nhớ về một thời xa lắc.
Hồi đó tôi chừng 5 tuổi, cái tuổi tôi được ưu tiên ngủ với Ba vì Má có em nhỏ. Những khi chiêm bao thấy điều sợ hãi chỉ cần nói nhỏ "ba ơi, con lạnh" là được Ba ôm vào lòng, thật ấm, thật yên tâm và ngủ lại lúc nào không hay. Nhưng Ba ít ở nhà vì đi buôn gạo lên Châu Đốc, thật tình tôi không biết mỗi chuyến Ba đi bao lâu, chỉ biết mong Ba về vì Ba sẽ mua nhiều thức ăn và Ba nấu món lạ và ngon.
Có lần phiên lúa xay ban đêm, có lẽ do nhõng nhẽo tôi đòi theo và như vậy là cha con ngủ đêm ở nhà máy xay, vật dựa trong tiếng máy xay và 'xót ngứa', là một kỷ niệm nhớ đời và sau này mới hiểu ra sự cực nhọc của Ba; cũng lần đó tôi thấy người ta dùng 'thẻ' để đếm. Người ta đong lúa bằng 'giạ' rồi đổ vào thúng để công nhân đội đi; mỗi lần như vậy người kiểm soát buông một thẻ và đếm "th..ẻ e".
Nhưng rồi một biến cố Ba Má trắng tay, nợ nần nữa, Ba tạm giúp Má chăn nuôi. Ba hay ra vàm sông cắt cỏ ống cho thỏ ăn, đôi khi tôi theo Ba ngồi bờ sông gần cầu nhà máy xay lúa, Ba im lặng còn tôi lơ đãng nhìn những đoàn ghe tàu (Ba gọi là convoi tiếng Pháp) gồm một tàu lớn kéo sau nó 'ghe chài', ghe vừa, ghe nhỏ, đôi khi có chiếc xuồng sau chót như đuôi con voi!
Hình ảnh này ăn sâu vào tâm hồn non nớt của tôi và có lẽ do vậy mỗi lần nhớ về Ba, tôi nhớ về con sông với hình ảnh đoàn tàu xuôi ngược và nhứt là bờ lau.
Ba xoay nghề bán vải nhờ bà Ngoại giới thiệu với 'các bà Huế' ở chợ Long xuyên. Thực ra đó là các bà người Bắc bán vải có sạp trong nhà lồng chợ.
Chợ Trà Ôn bấy giờ là cái sân của ông sáu Dương, nằm bên này bờ rạch, là chợ 'chồm hổm'. Ba đóng một sạp cây cố định, mỗi buổi sáng đẩy xe 'ba gác' chất bốn bao vải xếp ra bán, trưa gói về. Tôi có một kỷ niệm xấu hổ bấy giờ: dường như thấy tôi 'bơ bơ' nên ông tư Thìn kêu Ba giao cho tôi giữ bốn bao vải và ông lén giấu đi. Chừng Ba đẩy xe về hỏi sao mất một bao, tôi lớ ngớ muốn khóc thì Ba và ông tư cười xòa, đã giấu trong nhà cậu ba Ghỉ! (tôi ngu ngơ từ nhỏ tới lớn tới già !)
Hai bên Nội Ngoại giúp vốn, Ba Má cất nhà lập tiệm tạp hóa và bán vải, gia đình tạm bình an.
Tôi lên Saigon học, ở nhà dì, ngủ trên gác, dì tôi bị bịnh mất ngủ, đêm phải tắt đồng hồ, không bật đèn. Một đêm tôi bị kiết lỵ, gần kiệt sức phải rón rén đi. Có lẽ do tình thương sâu xa nào mà hôm đó Ba lên Saigon rất sớm, thấy Ba tôi muốn khóc.
Lập gia đình rồi, những khi tôi sanh con, do Má còn đi dạy nên Ba Má đoán ngày tôi sanh cho Ba lên thăm rồi giúp vợ chồng tôi chăm nom nhà cửa khi tôi dạy ở Bến Lức cả ngày.
Năm 1983, gia đình tôi định về thăm quê 3, 4 ngày thôi nhưng con gái út sốt xuất huyết phải nằm viện 12 ngày, Ba Má và vợ chồng tôi chia 2 ca chăm sóc. Ngày cháu xuất viện về nhà Ba tôi cười với cháu: "quần ông đã rộng 5 phân"!
Năm 1986, tôi trải qua cuộc đại phẫu thuật, khi tỉnh dậy, mở mắt, tôi đã thấy Ba mình đứng ở cửa phòng hậu phẫu...
Còn biết bao điều nhớ về Ba.
Hôm nay ngày giỗ Ba tôi...
20 thág 3 âm lịch
|
CHIẾC MÁY CHIẾU PHIM TÍ HON VÀ HAI CHÚ GÀ CON
Từ giã quê nội, gia đình tôi về quê ngoại. Cuộc sống chúng tôi thay đổi, nhất là tôi phải xa những buổi sáng theo bà xách cái quảo (rổ con) hái, lượm mận hay những buổi trưa lùng sục sau vườn không biết tìm gì?! và không còn được hưởng những buổi trưa được bà hay chú út đưa võng ru ngủ!
Nhà ngoại ở gần chợ không ao vườn, ít cây trái chỉ có hàng dừa bao bọc, vài cây xoài, vú sữa...nhà rộng thoáng nên thiếu nơi chơi cút bắt (trốn tìm) và tôi có cậu út "hắc ám" hơn tôi hai tuổi được ông bà rất cưng nên hay bắt nạt tôi!
Biết sao được, tôi vẫn phải lẽo đẽo theo cậu chơi!
Ngoại sắm cho cậu hai con gà con bằng kim loại mình vàng, chân vàng, mỏ đỏ rất đẹp. Gà được lên giây thiều nhảy 'lưng tưng'. Hai cậu cháu bò theo hai con gà nhảy quanh bộ đi văng, chờ chúng 'chết' để lên giây thiều lại, vậy mà suốt cả buổi!
Ngoại còn sắm cho cậu 'máy chiếu phim'. Gọi là 'máy' cho oai chứ thật ra nó chỉ bằng cái hộp, bên hông có mặt kính phóng to hình và cậu lần lượt cho vào các tờ phim, cho vào liên tục và các ngưòi trong đó hiện ra di chuyển liên tục. Đó là những năm 1946- 1947, quá văn minh phải vậy không?!
Giờ già rồi ngẫm nghĩ lại: ờ hé! Các chú gà con nhảy từng bước quanh đi văng khác chi chúng ta đã nhảy những 'bước chân chim' ngày nhỏ và....bây giờ từng bước từng bước đi đến cuối cuộc đời. Gà con bằng máy vô tâm còn chúng ta có vô tình?!
Khi thay nhanh các tờ phim, người và vật chuyển động, còn chúng ta thì sao(?), ta bước chân tới, nghỉ, và tiếp tục bước, liên tục liên tục, có phải đó là 'pháp sinh diệt' của con người và vạn vật?
Ta thường nhìn các hình chúng ta thời trẻ trung, tươi xinh đối chiếu với những hình già nua bây giờ và buồn hay mỉm cười "mình đó sao?!", chấp nhận cái lẽ Vô Thường của các pháp và có bao giờ bạn nghĩ: không phải 10 năm, 20 năm ta mới già, mới thay đổi mà ta đã già đi theo từng bước chân , từng hơi thở và cái lẽ "sinh diệt" có trong từng hơi thở, từng bước chân, từng khoảnh khắc không thể đếm là sat na!
09 /4/25
|
BÀ NGOẠI TÔI
Hôm nay ngày giỗ Bà
Chúng tôi được nghe kể lại: các cụ tổ của chúng tôi đi khai hoang lập nghiệp ở Miệt Thứ vào thế kỷ XlX và hai họ Cao, Bùi nổi tiếng ở Rạch Giá lúc bấy giờ.
Do nghĩ tuổi của Bà tôi kỵ tuổi của ông Cố nên Bà được cho làm con nuôi của cô dượng mình không con, ở Trà Ôn (là ông bà ngoại nuôi của má tôi).
Trong khi các anh chị em của Bà sung sướng, được học đàn tranh, thảnh thơi thì Bà biết bươn chải từ nhỏ với nghề hàng xén (bán tạp hóa) và hàng xáo (buôn gạo) và chính Bà đã hướng dẫn Ba tôi nối nghiệp này.
Má tôi kể lại: những năm khó khăn (1944- 1950), dân thiếu vải, xà bông,... nhà Nội tôi nuôi tằm, nhà bà Mười bà con có khung cửi dệt vải chỉ đủ may cho ông bà Nội, má tôi phải cắt những áo dài thời con gái của Má may quần áo cho tôi.
Người già đốt vỏ chuối lá Xiêm lóng lấy nước gội đầu, người trẻ gội Bồ Kết, đám con trai dường như gội bắng cách lặn hụp dưới sông hay vò lá Bông Bồng cho có bọt rồi lặn.
Và tôi...
Do ông ngoại có tiêu chuẩn mua nhu yếu phẩm nên thỉnh thoảng bà cùng 'người làm' bơi xuồng lên thăm cho xà bông đứa cháu ngoại đầu, nhờ đó tôi không có ghẻ và... thơm tho(!!!).
Về Ngoại, có lẽ nhờ vải ông mua, bà may áo đầm cho tôi đi học .
Mùa Nước, trường dạy tạm ở Miếu Bà. Từ nhà ngoại vào miếu phải đi cầu khỉ do đường bị ngập. Ngồi học, dưới chân là nước phải co chân, mặc đầm rất tiện nhưng khi nước giựt về lại trường, do thiếu bàn, thầy giáo cho lật ngang các tủ học cụ và... 3, 4 đứa chen nhau ngồi trên vách tủ, khổ thân tôi với các 'thằng' bạn học quái quỷ(!)
Bà dạy tôi và cậu út gói bánh ít (ếch), cái cục bột nếp trơn lùi, vậy thì phải tập bằng cách lấy cục đất sét 'luyện tay nghề', và gói bánh Tét thì bà 'gióng' sẵn và hai cậu cháu 'nứt dây', cột cho chặt. Nhờ vậy, sau này khi có gia đình tôi có thể dạy con mình.
Những ngày giỗ bao giờ cũng có ổ Bánh Đúc khuấy trong 'nồi đồng'. Ai đã làm bánh này cũng biết khi bột chín cho thêm 'hàn the' vào cho dai và khuấy liên tục bằng 'đũa bếp' mới hiểu nó nặng và mỏi tay như thế nào (!) mà không dám than, nhưng vẫn mong có đám giỗ để được ăn ngon và bao giờ cũng có món 'lai xét' bánh đúc chấm nước đường thắng kẹo rắc mè.
Đôi khi Bà làm Xôi Vị. 'Sên đường' thì chỉ Bà làm vì sợ cháu mình làm khét, tôi chỉ vừa rắc mè vừa hít mùi thơm của lá Dứa thoảng mùi nước cốt dừa hoặc mùi thơm lá Cẩm thoảng mùi 'tai vị'.
Bà giao tôi ngâm gạo hoặc nếp, đôi khi tôi bị bà nhắc nhở nhẹ nhàng "con mắt con to hơn cái bụng" là do tôi tham ăn phải vậy không?!
Dù má tôi học Nữ Công đàng hoàng ở Saigon nhưng má chủ yếu làm bánh champagne, biscuit hay tỉa mứt do hàng xóm nhờ khi có đám cưới, bà dạy tôi các món dân dã truyền thống: bánh Tai Heo, nấu món 'Kiểm chay'. Hồi đó không có 'bột khoai' bà khuấy bột, tôi nhồi, vò và ấn ngón tay thành cái muỗng, múc cúng mỗi chén phải rắc bông Trang đỏ làm duyên!
Đôi khi về Rạch Giá, Bà đem về quà biển là khô cá Thu để chưng với gừng, có một lần Bà đem về một đôi Sam tôi biết con Sam từ đây.
Bà bị bịnh bao tử, thường ợ chua (có lẽ tôi được hưởng di truyền từ bà) nhưng Bà thích uống cà phê và ăn ổi... hay dùng Chét dãy cỏ làm lở đất, ông không vừa ý, bị ông nhắc nhở hơi to tiếng vậy là... Bà có bọc cà phê riêng, nấu cơm riêng, ăn riêng và lúc nhỏ tôi là 'đệ tử' của bà (ôi , viết đến đây sao nhớ bà quá!)., chỉ vài hôm thôi.
Bà theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương. Thỉnh thoảng có ông Chín Nhứt cùng lý giải thơ kinh với Bà và đôi khi bà bắt tôi cúng lạy buổi tối. Lâu ngày tôi cũng thuộc theo bà 12 câu nguyện Đức Quán Thế Âm và cuối cùng phần cầu nguyện bao giờ tôi cũng nghe bà cầu 'Quốc thới dân an, cầu Thầy trở lại, Chúa trở về' và "con nguyện 'đời đời' làm tôi Phật", Bà hướng dẫn ba má tôi lên Láng Linh qui y.
Tôi đã khá lớn, cứng đầu tôi nói với Ngoại "mình làm con của Phật sao nguyện đời đời làm 'tôi tớ' và tin Phật là đủ sao phải 'qui y" Bà chỉ giải thích "con phải qui y mới vào được cửa Phật".
Hồi nhỏ tôi hay được theo bà đi Châu Đốc thăm bà con, thăm bà út Tiển em út của bà nhà ở triền núi Sam viếng Miễu Bà chúa Xứ, chùa Tây An, lăng cụ cố Thoại Ngọc Hầu.
Bà không rầy la con cháu, cũng không đánh roi nào nhưng Bà nghiêm lắm con cháu rất sợ mà tôi vẫn không nhớ Bà có bao giờ cười không?
Lúc già bà bảo tôi viết để bà học thuộc Bát Nhã Tâm kinh. Có lẽ bà không hiểu sự cao siêu ý kinh (như chúng ta thôi) nhưng Bà sống với tinh thần ngưỡng nguyện tột cùng Đức Quán Thế Âm .
Cuối đời bà bị cơn đau bao tử hành hạ, năm 1986 chúng tôi về thăm, những lúc cơn đau trỗi dậy, bao tử của bà gò cứng, bà chịu đau nắm tay tôi để tôi tụng chú Đại Bi. Tôi biết làm gì hơn bây giờ? Tuổi bà cao, điều kiện y tế quá khó khăn !
Bà tôi ra đi trong tiếng niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát của má tôi...
16/3 âl
|
ĐỊA DANH VÀ ĐỜI NGƯỜI
Trong tâm khảm của tôi, nơi tôi được sinh ra là Cải Gút thuộc làng Nhơn Mỹ tổng Định Hòa huyện Chợ Mới tỉnh Long xuyên.
Đến đời Ba tôi, gia đình tôi gọi 'đường' bằng 'đàng' (ngoài đàng, đàng cát, đàng phèn...). Không phải do ảnh hưởng lịch sử chia 'đàng trong, đàng ngoài' thời Trịnh Nguyễn phân tranh mà do tránh và 'cử' tên ông tổ 5 đời của dòng họ tôi, cụ tổ Đoàn văn Đường.
Gia phả cho biết tổ tiên tôi từ miền Trung vào Nam định cư ở Cái Bè Tiền Giang sau đó đến đời tổ kế tiếp vào lập nghiệp ở tổng Đinh Hòa. Không biết bấy giờ nơi đây đã có tên đất chưa hay tổ của chúng tôi thấy đất màu mỡ nên khai hoang lập ấp và đặt tên 'Định Hòa', có phải nghĩa là 'an định và hòa lạc' không? Xưa, cả vùng đất này người dân 'cử' tên ông, đến đời ba chúng tôi vẫn giữ nếp nhà và đến đời chúng tôi là... mất gốc.
Làng Nhơn Mỹ tên quá đẹp phải vậy không và gần như cả vùng Cải Gút là họ hàng xa gần của ông Nội tôi.
Năm 1977, tôi chủ nhiệm lớp 12C2, giờ lao động được nghỉ, cô- trò chuyện phiếm học trò hỏi quê của cô giáo và khi nghe tôi nói quê mình thì em Trí mừng rỡ "Cải Gút là quê ông ngoại em, quê nội ở cù lao Giêng, hè em hay theo má em về thăm ngoại, thật vui"; ông ngoại em và ông nội tôi là 'bạn làng' khi xưa: ông nội tôi là hương Cả, ông nội của em là hương Thân, tôi có nghe tên, có biết, cái tình đồng hương.!!!
Ông nội tôi do mai mối của các bạn làng xin cưới bà tôi là người ở Mỹ Hội Đông, liền đường xe, cách hơn chục cây số.
Mỹ Hội Đông, nơi có' "nhà thờ tổ họ Lê" của bà nội tôi, do tổ tiên của bà tôi cũng góp công, góp sức xây dựng miền đất phía Nam này, gia phả còn ghi.
Thực sự khi khôn lớn tôi ít có dịp về quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn nhưng lòng vẫn nhớ về ông bà, cô chú gần xa. Tôi vẫn nhắc và kể cho các con nghe về những kỷ niệm ấu thơ của mình, thầm rót vào tai các con nhớ về nguồn cội, công lao của ông bà ngày xưa đã đến lập nghiệp, xây dựng nơi này.
Nghe tin tên xã, làng thay đổi khi tỉnh ghép lại và làng Nhơn Mỳ là xã Chợ Mới Tây, Mỹ Hội Đông là xã Chợ Mới Đông, có phải vậy không?
Mong con cháu mãi nhớ về làng Nhơn Mỹ và Mỹ Hội Đông dù tên gọi có thể thay đổi nhưng lòng vẫn không quên như nguồn nước đượm phù sa nuôi sống con người mãi mãi...
Tên đất nơi sinh và con người mãi mãi là nỗi nhớ niềm thương...
22/04/2025 |
|