NHỮNG NGÀY THÁNG CŨ
Xưa, trên hai vách nhà Ngoại tôi có treo một bên là tranh hai con công khoe đuôi, một bên là hai con nai vàng ngơ ngác (?).
Từ ngày ra đời đến lúc đó, sáu tuổi, tôi chưa thấy những con vật nầy, không nghĩ không có trên đời nên ước một ngày ... và hè năm 10 tuổi, đậu bằng Sơ Học tôi được Ngoại thưởng đi Saigon.
Saigon năm 1952, "Sở Thú" ít thú lắm. Bước chân con thích thú theo Ngoại và ... cái gì, điều gì cũng làm tôi mê mẩn, ngẩn ngơ... Và dĩ nhiên tôi không rời mắt những con công xòe đuôi múa (sau này tôi mới biết là bài múa tỏ tình!). Bấy giờ chưa có các loài công lạ, quý như ngày nay.
Nhìn con công múa mà liên tưởng bài Đồng Dao mà Ngoại hay hát hồi tôi còn nhỏ. "Con công tố hộ trên rừng", (tố hộ là sao?) và thắc mắc này bị xoá ngay khi đi qua chuồng thú.
Và kìa, nai ?! Những con nai nhởn nhơ ăn cỏ trong chuồng không biết có "ngơ ngác" như trong bài thơ của LTL sau này tôi được đọc và ý thơ theo tôi suốt thời hoa niên...
Trong phòng khách nhà Ngoại còn một tranh Thác Cam Ly. Thác Cam Ly, ý nghĩa ra sao tôi không hiểu, ở đâu tôi không biết nhưng nhìn thác nước trắng xoá và rừng cây (sau này tôi mới biết là rừng thông) xanh ngát tôi lại mê mẩn, mơ... một ngày... 
Sau này, mãi năm 1982 (1983?) có dịp đi Đà lạt theo Công Đoàn giáo dục quận 8 với chị Chắt và chị My tôi mới được ngồi trên tảng đá bên bờ thác. Thác không còn đẹp như tranh vẽ nhưng còn nét hoang sơ đủ tâm hồn lãng đãng của tôi đi xa ... Hè năm 1984 trường LVC tổ chức đi Đà lạt. Đây là một kỷ niệm vui.
Mỗi người góp 3 kg gạo, đóng bao nhiêu tiền tôi không nhớ. Và thầy Nho là phó CT Công đoàn hăng hái làm Giò Thủ mang theo cho đoàn để giảm chi phí ăn uống. Giò thủ để trong tủ lạnh nhà trường và ... có lẽ điện lúc bấy giờ yếu, đi đường xa nên khi lên đến Đà Lạt, món khéo này "làm reo" rã rời, bốc mùi...
Đêm đó chúng tôi được phân ngủ ở nhà bà con, người thân anh ấy ở thác Cam Ly. Chị My, tôi và bốn đứa con chúng tôi ấm cúng trong một giường. Đêm không thể ngủ vì lạ chỗ và nằm nghe tiếng rừng thông reo... Lần đầu trong đời nghe tiếng reo vu...vu. Sáng sớm, sườn đồi mờ sương. Trời lạnh, thở ra toả hơi nước. Sườn đồi bên kia mờ nhạt mộ cụ Nguyễn Hữu Hào, thân phụ Nam Phương hoàng hậu, tôi có ý muốn đến xem nhưng không có thời gian, bây giờ không biết còn không. Đêm gió lộng làm trái su rụng đầy và chúng tôi lượm vào xào ăn cơm sáng. Công an không cho ở, bảo sợ Fulro tàn sát. Vậy là khăn gói về thành phố Đà Lạt, ở Nhà Khách thành phố. Công đoàn (gồm phụ nữ đứng tuổi) phụ trách nấu ăn và... các bạn trẻ thảnh thơi tham quan thành phố.!!! Có lẽ Ban Giám Hiệu không yên lòng nên quyết định bán gạo, không nấu ăn nữa. Vậy là, hôm trước em V Đ Sơn vác gạo từ xe lên, nay phải vác ra chợ bán và... chúng tôi (các bà ...chưa già) được giải phóng, theo đoàn "tung tăng"... Xe chở tham quan Dinh Bảo Đại, nhà bà Ngô Đình Nhu (?), chùa Tàu (hồi này chưa có hồ Tuyền Lâm), hồ Than Thở (mà than thở thiệt vì nước cạn mà Đồi thông hai mộ không biết mộ nào vì bấy giờ chưa có Hướng dẫn viên du lịch!!). Vẫn thích nhất là Vườn hoa Đà Lạt, thung lũng Tình Yêu viền cây đẹp, nước trong xanh và Hồ Xuân Hương. Chiều chị My và tôi dẫn các cháu lên chùa Linh Sơn lạy Phật và. cũng lần đầu tôi thấy hoa Mimosa. A, khác hẳn suy nghĩ của tôi!. Tôi vẫn nghĩ Mimosa là giống hoa Mắc cỡ, e thẹn khép cánh. Không, cây hoa cao, lá như phủ phấn trắng và hoa vàng.... Chúng tôi xuống nhà Thuỷ Tạ ở hồ cho các cháu giải khát.
Tôi "bấm bụng" gọi cho con một ly sữa ca cao, lòng nghĩ thương con thiệt thòi, không biết từ nay cuộc sống mình thế nào?! Tôi thả mắt nhìn mông lung, bên kia là Đồi Cù. Trong nắng chiều, đồi cỏ phủ sắc hơi vàng,đẹp quá. Dòng ký ức đưa tôi về hai mươi năm trước. Hồi ấy tôi đã từng mơ - từng nghĩ đúng hơn - tôi sẽ lên Đà Lạt này, dạy trường Bùi Thị Xuân và cuối tuần xuống đập Đa Nhím thăm...vì người ấy (bây giờ là ba của đám nhỏ) sẽ công tác tại đó! Thời gian qua quá nhanh, tất cả đổi thay!
Nhà Ngoại còn có bức tranh, bức hình phóng đại được Ngoại lộng kiếng: Nha Trang - Cầu Xóm Bóng. Hè năm 1989 tôi được Công Đoàn Giáo Dục cho đi tham quan Nha Trang cùng chị Đông và Ái Việt. Lần đầu đi miền Trung dọc bờ biển. Qua Rừng Lá (bây giờ chắc không còn) một bên là biển, một bên sườn núi trọc chỉ thấy xương rồng, chen lẫn với cây điều buồn bã. Tôi nhớ khoảng năm 1963 giáo sư Phùng Trung Ngân ở trường ĐHKH có thuyết trình đề tài (tôi quên tên) cho biết đất đai vùng Phan Rang rất giống thổ nhưỡng vùng Địa Trung Hải nên có thể trồng nho, điều quan trọng là biết cách cắt cành... Và Nha Trang hiện ra xanh tươi với vườn xoài (không phải giống xoài bây giờ). 
Nha Trang năm 1989 còn đẹp nguyên sơ. Chúng tôi được tham quan Hải học viện Nha trang (Viện Hải dương học), chùa Long Sơn. Bấy giờ sức khỏe tốt, chúng tôi theo các bậc thang lên chỗ tượng Phật nhìn tổng quát thành phố.
Xa lắm là các tàu đánh bắt cá, bên phải là núi Cô Tiên xõa tóc mà anh hướng dẫn viên du lịch khi chở đoàn qua đèo Rù Rì đã đọc hai câu thơ: "Anh đứng ngàn năm thao diển nghỉ
Em nằm xõa tóc đợi chờ anh" Bây giờ được đổi là: "Anh đã đi rồi qua nước Mỹ
Em nằm xõa tóc đợi làm chi..."
(Núi Cô Tiên bây giờ có thay đổi gì không trong sự thay đổi chóng mặt bây giờ?). Và, tôi được thỏa mãn ước mơ thuở nhỏ khi tham quan Tháp Bà. Tôi và chị Đông ngồi rất lâu trên thềm Tháp, xoay người ngắm Cầu Xóm Bóng trong mơ ngày nào... Thành phố Nha trang một lần Ba Má tôi từ Long xuyên xa xôi lặn lội ra đây thăm em tôi. Có lẽ Ba Má cũng không được như tôi tận hưởng vẻ đẹp của thành phố biển này... Đường Trần Phú còn thoáng, buổi chiều chúng tôi hay ngồi theo bờ đá nhìn trời mây. Và ngoài kia là đảo Trí Nguyên bấy giờ là nơi du ngoạn biển duy nhất.
Chúng tôi còn được tắm suối nước nóng. Được cho là chất khoáng trong nước sẽ làm trẻ ra. Và...hướng dẫn viên du lịch kể chuyện khôi hài : có cặp vợ chồng già tắm suối. Đến chiều người chồng không thấy vợ, đi tìm, chỉ thấy một bé gái ngồi khóc. Phụ nữ muôn đời muốn trẻ đẹp mãi, cánh nam nhi có thế không?! Nhưng có lẽ thích nhất là đi Hòn Chồng. Đoàn đi bộ dọc bờ biển có nhiều dừa, leo dốc lên, dốc xuống để đến nơi nổi tiếng, sánh với Tháp Bà. Tiếc là sau này đi Nha Trang tôi không tìm được hình ảnh Hòn Chồng ngày xưa.
Có một kỷ niệm khó quên - vì nó nặng lắm, trước hôm về, để có kỷ niệm chúng tôi ra chợ Đầm. Người mua rong biển, người mua khô, riêng tôi "rinh" (vì nặng quá) một cối đá và chày đá. Để dành quết cua.! Lúc bấy giờ khó khăn quá đi chơi cũng không quên việc nhà!. Lần đi này thú vị là chúng tôi được đi Đại Lãnh. Bấy giờ Nha Trang (Khánh Hoà) và Phú Yên là tỉnh Phú Khánh vừa tách ra. Không biết Đại Lãnh thuộc tỉnh nào mà một bãi biển đẹp, sạch tuyệt vời như thế này chỉ có một quán ăn duy nhất, không ai, trừ đoàn chúng tôi. Và...nói ra chắc có sự ghen tỵ: chỉ có ba chúng tôi (không sợ nước, mê biển) vẫy vùng thỏa thích trong nước xanh... 
Hè năm 1994 chị Nguyễn thị Mỹ về hưu. Những dòng trong bài viết này xin cho tôi được nhắc về chị. Một người chị tôi rất quý mến và luôn nhớ. Chị là CT công đoàn, và tôi được niềm vui không ngờ cùng chị tham quan Huế, Đà Nẵng 9 đêm 10 ngày. Rời Saigon sáng sớm, chúng tôi đến Phan Thiết vừa đúng ăn trưa. Cũng nhà hàng Kim Sơn, nhà hàng này các lần tham quan miền Trung tôi đã ghé. Lên xe, xe tiếp tục hành trình. Hai chị em được may mắn ngồi sau tài xế nên tôi dễ nhìn cảnh quan dọc đường, đó là thói quen từ nhỏ: tôi in vào tầm mắt phong cảnh bên đường. Chị cũng vậy. Dường như có niềm xúc động âm thầm nào khiến chị thì thầm với tôi những ngày chị học nội trú Gia Long. Quê chị ở Sa đec, cùng phòng có chị bạn quê Phan Thiết và hè năm đó bạn rủ chị về quê ngắm biển... Và chị quen với anh trai chị này sau này là ba hai cháu Lệ Phi, Minh Nhựt... Qua Phan Rang, xe vào biển Cà Ná. Nơi đây, tôi có một kỷ niệm đáng nhớ. Năm đó ủy viên Nữ Công được du lịch ba ngày vùng biển này. Bờ biển trống trơn, sỏi đá, không gì nhìn. Buổi chiều tôi và em Tuyết dạy ở Ngô Gia Tự ra ngồi trên các tảng đá nhìn biển và hai chị em giống nhau ở chỗ: nơi đâu cũng có cái đẹp riêng nếu ta biết thưởng thức. Biển mênh mông, gió lộng và trời và mây... Thích phải không? Chỉ có một nhà nghỉ nhỏ xíu và đêm đó chuột cống tấn công làm mất ngủ.
Sáng chỉ duy nhất món mì nấu thịt bò điểm tâm và mỗi người được một ổ bánh mì với một miếng thịt gà rôti. Cả đoàn xuống tàu, có lẽ tàu đánh cá chạy ra hòn ngoài khơi. Ai cũng phấn khích. Các ghe đánh bắt mực cũng cặp đảo và...thích chưa?! Những con mực to, tươi rói. Các ngư dân làm dùm, rửa ngay tại biển... Mực trắng phau, dày như cơm dừa nạo. Chấm muối tiêu chanh... Chúng tôi no nê, "trả thù" buổi ăn sáng và ăn trưa chỉ ổ bánh mì với miếng gà nhỏ xíu! Tàu định ra về thì trời nổi cơn giông. Các ngư phủ bảo không thể về, nguy hiểm lắm... Đảo không một mái nhà, trơ trọi... không nơi trú ẩn nếu mưa giông. Vậy là về! Lần đầu trong đời tôi thấy sóng to, cao ba bốn thước (?). Tàu nương theo sóng mà trôi. Chúng tôi, người niệm Phật, người cầu Chúa...Tôi nghĩ đến gia đình: ôi,mình không đi vượt biên để bảo toàn gia đình. Có lý nào, do đi chơi mà bỏ thây giữa biển?! Tàu cặp bờ. Tôi không nhớ chị nào trong đoàn đã xoay ra biển và lạy. Đêm đó chúng tôi nghỉ đêm ở Nha Trang và sáng sớm hôm sau khởi hành...
Phú Yên
Hồi nhỏ trong sách tập đọc có bài "cầu Đà Rằng". Tôi cố nhìn dòng sông mênh mông. Hướng dẫn viên du lịch cho biết cầu dài hơn 1 km, do Pháp xây vào đầu thế kỷ XX... Khác sông miền Nam, sông sâu, nước đục phù sa. Sông cạn phơi bãi cát, nước trong. Phải chăng do vậy mùa mưa nước lũ tràn bờ? Qua đầm Ô Loan, tôi cố nhìn cảnh đẹp dù rất sợ đường núi. A,có những "đường tránh nạn" rẽ vào núi lần đầu được thấy. Xe dừng ăn trưa ở đinh đèo Cù Mông. Bức xúc, hai chị em đi ra phía sau. Hồi này du lịch còn non lắm. Các khách Tây tìm không được nơi "giải tỏa" đành bắt chước chúng tôi.! 
Chúng tôi được hai ngày ở Đà Nẵng và Hội An. Năm 1971, nhà tôi theo đoàn chuyên gia Nhật, tham quan Đà Nẵng. Với anh nơi đây chỉ còn nhớ cá tôm biển rất to và ngon. Năm1994, Đà Nẵng thành phố đẹp, dân hiền hòa. Đoàn tham quan Ngũ Hành Sơn. Năm ngọn núi giữa vùng đồng bằng. Sách tập đọc hồi nhỏ có bài "Động Huyền Không": "Dưới chân núi Ngũ Hành, rẽ vào bên phải có động Huyền Không...". Tôi háo hức...
Ôi, động thạch nhũ to quá. Trong động có tượng Phật rất to, nước mưa (?) thấm qua khe đá rỉ từng giọt... giọt. Bao người hiếm muộn muốn nhờ nước thiêng.?!
Hai chị em đến "cổng trời". Phóng mắt nhìn toàn cảnh, và xa kia là gì? Chúng tôi vào cơ sở tạc tượng mua một tượng Đức Quán Thế Âm, một xâu chuỗi và bộ ấm chén uống trà bằng đá.
Và Hội An,
Đường hẹp, nhà cổ xưa rất hợp tâm hồn hoài cổ của tôi. Tôi không dài dòng vì chúng ta đều biêt nơi đây mấy thế kỷ trước là nơi giao lưu các nước trên đường buôn bán. Người Nhật, người Hoa đã để lại dấu ấn với Chùa Cầu và những chùa mang phong cách phương Bắc. Nơi,các thương thuyền Bồ Đào Nha đã ghé trao đổi hàng hoá, nơi người Pháp đặt tên là Tourane (tháp sông Hàn), nơi chúa Nguyễn đã gả con gái (có thể gọi là công chúa không?) tận nước Nhật xa xôi .
Điều còn trong trí tôi là những ngôi nhà cũ kỹ được nhà nước khuyến khích giữ nguyên nét đặc sắc: những gánh hàng rong gọn nhẹ, không dây điện chằng chịt... Chúng tôi được tham quan một nhà cỗ (tứ đại hay ngũ đại đồng đường?) Và...những bức " tường rêu". Không biết người dân bản địa có tự hào điều này không. Riêng tôi, một lần được xem truyện ngắn "Tường rêu", chuyện rất cảm động, đã được quay thành phim, tôi càng muốn trở lại nơi này... Đà Nẵng, Quảng Nam, Hội An với các món ăn đặc sản ...đã toả ra khắp nước.. Hai châu Ô Lý muôn ngàn dặm Một gái Huyền Trân... Vậy là hai chị em tôi rời Đà Nẵng. Không biết chị Mỹ nghĩ thế nào. Riêng tôi thấy dường như mình thiếu một điều gì chưa lý giải được... A, một tấm hình, ít nhất một tấm hình! Ôi...biết bao cảnh đẹp sao chị em tôi không nghĩ được cách lưu niệm?! Có lẽ vì đoàn chúng tôi gần như toàn nữ, không ai có máy chụp hình cũng không thấy thợ chụp hình. Đành lưu vào ký ức hay mong một ngày trở lại thôi...
Đèo Hải Vân. Biết nói sao về nỗi sợ hãi! Đã từng đi qua đèo Chuối, đèo Prenn, đèo Rù Rì, đèo Cù Mông. Những lần đầu qua đèo tôi không dám mở mắt, tiếc cảnh đẹp thì nhìn vào vách núi... rồi cũng quen.
Lần này, như bác tài nói: "Ta sẽ qua các cùi chỏ...". Đường hẹp, hai xe ngược chiều ... hai bác tài lịch sự nép tránh nhau.Tôi chỉ biết niệm Phật. Tiếng chị Mỹ nhẹ như thoảng từ kiếp nào: "Hồi xưa tôi đi xe lửa..."
Tôi nhớ có lần em Ngọc Lan tổ sinh vật nói với tôi: "Đi xe lửa vào đêm trăng qua đèo Hải Vân đẹp vô cùng cô à!". Rồi cũng qua, xe đến đỉnh đèo. Chúng tôi vào Hải Vân Quan tránh nắng. Hải Vân Quan, còn lờ mờ chữ tồn tại theo thời gian. Chỉ có hai bàn bán nước ngọt, vài xe đò dừng tạm nghỉ. Cảnh đẹp mà cô liêu... Nhớ có lần đọc được ở đâu nói rằng xưa dưới chân núi này có trại phong. Những người bất hạnh, khốn khổ... trong một vùng hoang vắng tách biệt đồng loại... Xe xuống núi, đỡ sợ rồi... Và kia là Lăng Cô. Gần ba mươi năm, ký ức đã nhạt nhoà. Chỉ còn đọng lại một vùng biển đẹp...
Đến Huế vào buổi trưa, thức ăn Huế . Có điều vui là hướng dẫn viên du lịch có mời nhà thơ Võ Quê. Chúng tôi qua cầu Tràng Tiền về nhận phòng ở khách sạn Hương Giang. Đêm Hương Giang, thưởng thức ca Huế và thả đèn hoa đăng. Thả đèn hoa xuống sông Hương. Thử tưởng tượng xem: trong trời đêm, những ngọn đèn giấy bồng bềnh trên dòng nước nhuộm màu trời. Màu sắc như khắc nhau mà sao hài hoà vậy: những vì sao lạc xuống trần gian.!!! Mãi khắc sâu!!!
Còn ca Huế. Thú thiệt tôi dốt đặc môn nghệ thuật này. Chỉ biết khâm phục các cô gõ hai chiếc tách nhịp nhàng theo điệu hát rặc Huế, cảm nhận sự trầm lắng ru hồn. Nhớ có một lần, một người bạn nói: làm ăn ở Saigon, thưởng thức mùa thu Hà Nội và... chết thì về Huế". Là một nhận định thâm trầm phải không? Xin cho tôi được kể theo dòng ký ức vì không xác định được thời gian. Đoàn tham quan Thành Nội. Bờ thành cao, dày... Nội thành với Cửu Đỉnh, có một đỉnh thể hiện Kinh Vĩnh Tế quê nhà. Ngai vàng?! Xưa ngai vàng của vua như vầy sao?... Các bàn thờ các vua triều Nguyễn, còn ba bàn không nhang khói!!! Phía sau, Ngũ Đại Đồng Đường... Lầu văn thơ (?)... Tất cả chỉ còn "nơi đây... xưa là..." Tiếng chị Mỹ bên tai, chị giải thích cho tôi những gì chị còn nhớ trong quá khứ... Là ngày xưa ngai vàng rất đẹp..., là... Ôi... hè năm 1960 tôi được nhà trường Gia Long thưởng du lịch Huế mà gia đình không cho đi. Tôi vừa tiếc vừa buồn...phải chi... Chiến tranh đã qua khá lâu rồi. Sau này nghe UNESCO có tài trợ trùng tu...
Xe chạy dọc theo Kim Long lên Chùa Thiên Mụ (Linh Mụ). Chùa nằm tên đồi cao, tả ngạn sông Hương cách thành phố Huế 5 km.Hướng dẫn viên du lịch cho biêt do Chúa Tiên Nguyễn Hoàng xây năm 1601.
Qua bao lần trùng tu để có ngôi chùa cổ kính này? Chùa có chánh điện rộng, bố trí khác chùa miền Nam... và gác chuông chùa đặc sắc khắc hoạ hình ảnh nước Việt Nam.
Đứng ở sân chùa trên đồi cao, nhìn dòng Hương mới thấy các tiền nhân quá tuyệt vời khi chọn địa điểm này.
Phú Vân Lâu, nơi xưa trưng bày văn thư triều vua Gia Long. Có phải ở đây Ông Già Bến Ngự làm thơ hay nơi nào? Chị Mỹ đọc tôi nghe bài thơ của ai tôi đã quên, dường như là" Phú Vân Lâu ai chờ ai đợi..." của Ông Già Bến Ngự phải không? (xin thứ lỗi nếu tôi nhớ sai, viết sai!).
Viếng các chùa Từ Hiếu, Từ Đàm... qua Đàn Nam Giao nơi xưa các vua tế trời đất, bấy giờ chỉ còn nền đất cao!!!.
Thuyền ngược dòng Hương. Sông Hương đẹp vô cùng, Không ngửi được mùi hương của nước mà nước trong xanh như thiên nhiên không dám làm vẩn đục. Hai bên bờ cây xanh, loáng thoáng vài nếp nhà ẩn dưới vòm cây. Đó có phải là Kim Long nơi cư ngụ của các hoàng thân, các quan ngày xưa?. Tham quan Điện Hòn Chén nằm trên núi Ngọc Trản bên tả ngạn, cách Huế chừng 8km. Huớng dẫn viên nói có người xưa cho rằng do vua Minh Mạng đánh rơi chén ngọc, nơi đây nước sâu và xoáy rất nguy hiểm. Cũng có tích do vua Đồng Khánh đến vái xin được làm vua và... tu bổ hòn này. Viếng lăng vua Minh Mạng.
Thuyền ngược dòng Hương, đến nơi giao thoa hai dòng Hữu ngạn và Tả ngạn. Lăng nằm trên núi Cẩm Khê (?). Gọi là núi chứ cao như ngọn đồi được chính vua xây khi còn sống, năm 1841. Tương truyền vua thường cỡi ngựa lên đốc thúc việc xây lăng... Là một ông vua áp dụng sự chính đại, quang minh nên lăng theo hình thẳng. Từ đò lên, hai bên sân là hai hàng tượng đá uy nghiêm. Lăng mang nét cổ kính đậm màu Nho giáo. Viếng lăng buổi chiều qua các cầu bắt qua các hồ vào tận sâu gần núi, nơi chôn cất vua. Một nỗi u minh rợn người... Tồn tại trong ký ức là lăng rất cổ kính và đẹp... bao bọc bởi màu xanh của cây, cái yên ả tĩnh lặng của núi non và một sự uy nghiêm vĩnh viễn.
Lăng vua Tự Đức.
Là ông vua ở ngôi lâu nhất, hiếu đễ nhất và yêu văn thơ nhất, thi văn uyên thâm nhất triều Nguyễn nên lăng vua mang đầy đủ tính chất đó. Lăng có cấu trúc cầu kỳ phong cảnh sơn thủy hữu tình, là nơi vua đến nghỉ ngơi làm việc khi còn sống. Lăng có nhà thủy tạ dựng trên mặt hồ, nơi vua hóng mát, làm thơ. Có bến thuyền để vua ngao du, thủy ngoạn. Lăng xây rất lâu, có tên Vạn Niên Cơ. Tiếc vì xây lăng quá lâu, dân phu cơ cực nên xảy ra loạn Chìa Vôi do anh em Đoàn Trưng, Đoàn Trực (?). Sau khi vua mất đổi tên là Khiêm Lăng. Hôm tham quan trời không nắng nhưng vừa qua cơn bão năm trước nên Nhà hát cổ nhất Khiêm Minh Đường còn ngổn ngang, chưa sửa chữa. Tự nhiên tôi nhớ năm học lớp Đệ Nhị, thầy dạy văn có đọc bài thơ rất cảm động, có câu "xếp tàng y giữ lấy tàng hương (?), được cho là của vua Tự Đức nhớ Bằng Phi. Tôi hỏi chị Mỹ, chị cũng chỉ cười thôi.. 
Vào buổi gần trưa chúng tôi được tham quan lăng vua Đồng Khánh.
Hướng dẫn viên du lịch cho biết do vua mất bất ngờ chưa kịp xây lăng như tổ tiên nên phải chôn cất vào nơi dự tính chôn cất cha mình. Có lẽ do vậy trong ký ức tôi không còn hình ảnh nào ngoài một vẻ u ám chung từ tường đến nơi thờ. Có thể sau này phát triển du lịch lăng được tôn tạo đẹp hơn chăng.
Lăng vua Khải Đinh.
Có lẽ để tạo ấn tượng đẹp mà hướng dẫn viên cho chúng tôi tham quan lăng vua Khải Định sau cùng. Tôi không mô tả nhiều vì ai đi Huế cũng viếng lăng này, tôi nói sẽ thiếu sót. Ấn tượng nhất là hai chị em tôi phải leo hơn trăm bậc thang. Lên tới trên rồi, nghỉ mệt phóng tầm mắt nhìn bên kia đồi, ngắm cảnh đẹp. Không rành các trường phái kiến trúc, tôi chỉ ngẩn ngơ và ngớ ngẩn nghĩ có lẽ do nhà vua vừa ngưỡng mộ nét đẹp phương Tây vừa thấm nhuần văn hoá phương Đông nên cấu trúc của lăng lạ lắm. Mê mẩn cột, tưòng được ốp sành, sứ (?) Và...tượng vua cao như người thường mạ vàng hay toàn vàng (?). Đựơc cho biết thi hài vua được chôn dưới tượng này. Có lạnh người không? Điều an ủi là chúng tôi mỗi người đều chụp hình lưu niệm ở đây để còn khoe mình đi Huế chứ!
Rời Huế, điều tôi còn vương vấn là hình ảnh cầu Tràng Tiền in bóng trên dòng Hương, là vẻ đep riêng gây nhớ của dòng nướcxanh, là tiếc không được tham quan lăng vua Gia long, vị vua gây nhiều tranh cãi trong lịch sử về công và tội là chưa đến thôn Vĩ Dạ nổi tiếng trong thơ ca...
Và... bao nhiêu ngày qua, có lẽ do náo nức cảnh lạ mà tôi không nghĩ đến cái ăn! Ôi, đi chợ Đông Ba mình đã ăn gì?, có ăn cơm hến không?
Xuôi về Nam.
Đoàn ghé Quảng Ngãi, quê của đường: đường phèn, đường phổi và ai cũng mua để làm quà....
Chúng tôi dừng chân ở Bình Định - Qui Nhơn.
Qui Nhơn, nơi Trịnh Công Sơn từng đi học ở đây, nơi có "sự tích" Sơn Khê (?), là nhạc sĩ cùng thời sinh viên có những bản nhạc đầu tay tôi thường nghêu ngao thư giản mà không biết tên tác giả!. Chúng tôi cũng được tắm biển Qui Nhơn,được leo dốc lên "thăm"mộ Hàn Mặc Tử. Mộ rất đơn sơ (gần đây du lịch phát triển khu này rất đẹp).
Và, không bao giờ quên khu di tích vua Quang Trung Nguyễn Huệ. Phải lội bộ vào, đường còn sơ sài lắm. Một anh trong đoàn nói với tôi: bao năm rồi quê tôi vẫn vậy! Vẫn vậy là ngôi nhà thờ ba vua: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Nơi có cây me cổ thụ hàng mấy trăm năm và giếng nước cỗ. Nhưng ấn tượng nhất là màn biểu diển đánh trống trận: xuất quân, công thành và khải hoàn. Mà người đánh trống là Nữ: mẹ truyền con nối. Có thể lắm phải không? Đã có nữ tướng Bùi thị Xuân mà! Tiếng trống thôi thúc, dồn dập khiến tôi quá xúc đông như sắp có điều gì nguy hiểm xảy ra. Không biết có ai cùng tâm trạng như tôi không?.
Đến Phú Yên dường như xe có điều gì không ổn, bác tài tìm chỗ sửa chữa. Không tìm ra !
Xe đỗ đèo Cả. Do tài xế và phụ lơ trao đổi, hai chị em tôi nghe được và... đứng tim.!
Ôi... phải chăng tiếng trống hồi trưa là điềm báo trước ? Và... hai chị em tôi chỉ còn biết vái Đức Quán Thế Âm.
Bình yên.
Đêm Nha Trang yên lành, chị em tôi cố ngủ lấy sức để vui vẻ về nhà.... 15/01/21 
|