CHÙA XƯA Truyên ngắn 1.121 chữ của Trần Trung Sáng Đôi mắt đen tròn, sâu thẳm của nhà sư ngồi đối diện rộng mở xa xôi, không chút biểu lộ vui buồn... khiến đôi lúc thiếu phụ cảm thấy câu chuyện của mình lọt thỏm xuống đáy giếng nước mênh mông. Bà băn khoăn nhắc lại: -Thầy trụ trì chùa này trước đây là Thầy Giác Hải?. -A di đà Phật. Bây giờ vẫn là thầy Giác Hải -May quá!. Thiếu phụ định nói thêm: "Thầy cho tôi gặp Thầy ấy được không?", nhưng nhìn dáng vẻ điềm nhiên đến lạnh lẽo của nhà sư trẻ, bà ta lại hỏi vu vơ: -Thầy Giác Hải vẫn khoẻ chứ? -Dạ...thầy ấy vừa đi Huế. Thiếu phụ thoáng hụt hẫng. Bà rảo mắt nhìn quanh. Đã gần hai mươi năm qua, nhưng cảnh quan ở chùa xưa chẳng nhiều thay đổi. Phía xa xa, bên ngoài khuôn viên của cổng chùa vẫn thấy rõ ngôi mộ đơn chiếc của nhà chí sĩ yêu nước nổi tiếng một thời gắn liền cùng trầm luân đất nước, mà có lẽ những vòng hoa, những hương khói chỉ rộn lên vào những ngày lễ hội. Trong sân chùa, những chiếc lá vàng rơi xào xạc từ những tàng cây râm mát đọng lại trên thành giếng cổ, như có đó tự bao giờ... Nơi đây, hình như thời gian chỉ làm đổi thay một điều kinh khủng nhất: con người. Dù là người của Phật hay chốn chợ đời... Chừng không kìm được cảm xúc, thiếu phụ xoay hẳn vào câu chuyện chính -Chùa đây...trẻ như thầy còn có ai không? -Xưa cũng gần chục người. Lớn lên có người đi học xa, có người hoàn tục... -Thầy xuất gia từ nhỏ chứ? -A Di Đà Phật... Chùa nầy ai cũng vậy. Thiếu phụ lại im lặng trong giây lát, như lén nhìn kỹ vào gương mặt nhà sư trẻ để tìm kiếm một điều gì. Rồi nhẩn nha, bà kể lại một câu chuyện: Vào ngày Xuân năm ấy... một đôi vợ chồng trẻ cùng một đứa con nhỏ chừng ba bốn tuổi đến viếng chùa này. Trong lúc hai vợ chồng đang thắp hương khấn Phật đứa bé được bỏ mặc chạy nhảy, đùa nghịch quanh quẩn bên các pho tượng, chuông mõ...trong chùa. Đến chừng ra về, đứa bé cứ nằn nì chẳng chịu đi...Tưởng con ham thích cảnh lạ nên hai bợ chồng nhẫn nại đợi chờ. Thế nhưng,đến chiều tối, đứa bé vẫn không cho cha mẹ bồng. Sau một đêm, rồi nhiều đêm khác gởi lại cho nhà chùa, hai vợ chồng trở lại đón con. Nó lại một mực đòi ở lại. Thầy trụ trì bảo rằng đứa bé có căn tu.Thôi để nó lại cửa Phật hẵng hay... Đứa bé mặc nhiên xuất gia từ đó... Vì biết sự việc, trước ngày, thỉnh thoảng tôi vẫn ghé thăm chú tiểu. Nhưng rồi cuộc sống, có những đổi thay nhất định, phải đi xa... Dễ hơn mười lăm năm mới trở lại quê hương, ghé thăm chùa, tôi rất băn khoăn: không biết chú tiểu ngày ấy giờ ra sao? Nãy giờ nhà sư mới sửa lại dáng ngồi, châm trà mời khách... Thiếu phụ cảm nhận trong đôi mắt sâu thẳm của nhà sư như lần đầu có làn sóng xao động nhỏ. -A Di Đà Phật...câu chuyện này thỉnh thoảng tôi cũng có nghe. Cứ tưởng chuyện hồi xa xưa, không có thật. -Thầy biết chuyện này à?. Đây là chuyện hoàn toàn sự thật. Thầy trụ trì Giác Hải kể lại ra sao? -Tôi cũng không nhớ rõ thầy Giác Hải kể hay ai kể. Nhưng khi còn nhỏ các chú tiểu ở đây ai cũng biết chuyện này và nghĩ đó là giai thoại như chuyện pho tượng, cái giếng cổ, cái chuông đồng... trong chùa. Nhưng nếu nó là chuyện thật thì cũng có điều rất đáng băn khoăn. -Thầy băn khoăn điều chi? -Nếu là thật, trong gần hai mươi năm nay, chúng tôi cũng phải có lần thấy cha mẹ của chú tiểu ấy trở lại tìm thăm. -À, thầy không tin là lẽ vậy... Câu chuyện của thiếu phụ lại liền mạch. Có lẽ là định mệnh. Bởi sau khi đứa con nhỏ ở lại cửa chùa thì đôi vợ chồng này lại xảy ra những bất hoà, mỗi người mỗi ngả... Khoảng một năm sau đó, người chồng có gia đình khác. Người đàn ông ấy có thể đã quên chuyện cũ Nhưng người mẹ thì không...Chỉ có một điều nghiệt ngã, cuộc đời đưa đẩy người mẹ ấy đến một nơi rất xa... -A Di Đà Phật.... Câu chuyện xem chừng nhà sư trẻ chú ý nhiều hơn. Nhà sư hỏi: -Câu chuyện này rõ ràng không như tôi nghĩ. Nhưng thí chủ đây với và mẹ ấy là sao mà biết rõ vậy? -Là...người quen. -Bây giờ bà mẹ đâu rồi? Đã vậy tôi nghĩ cũng nên giúp bà ta tìm lại người con... Để biết chú tiểu ấy còn ở đây ở đây hay đi nơi nào khác? -Thầy...thầy hứa giúp tôi nghe! Thiếu phụ không giấu được vui mừng níu tay áo nhà sư. -A Di Đà Phật, nếu giúp được chỉ đơn giản là thầy Giác Hải chứ không ai khác. -Thầy nói đúng quá, chỉ có vậy... Mà làm sao đây nhỉ? Nay mai tôi lại đi rồi... Thiếu phụ không nói nữa, Bà bỗng rảo mắt quan sát nhà sư một cách mạnh dạn hơn. Bà như muốn bộc lộ thêm một điều gì khác. Nhưng cái gợn sóng nhỏ trong ánh mắt của nhà sư đã tan biến mất, trở lại xa vắng như trạng thái ban đầu khiến bà e ngại. Bất chợt, xen lẫn giữa tiếng kinh tụng chiều rời rạc vọng lên từ chánh điện, có tiếng điện thoại reo vang... Cái âm thanh hối hả ấy lấn lướt buông thả vào cái không gian u tịch của ngôi chùa hẻo lánh càng nghe rờn rợn như một dự báo chẳng lành Nhà sư nghe điện thoại xong trở lại chỗ ngồi, trầm mặc giây lát rồi lên tiếng. -A Di Đà Phật, thầy Giác Hải vừa viên tịch tại Huế. Thiếu phụ cảm thấy hai chân mình rã rời như không đứng nổi. Nhưng bà hiểu ngay từ phút này cánh cửa quá khứ của chùa xưa đã đóng sập lại. Và trước mặt bà, nhà sư trẻ chừng trở thành pho tượng gỗ.... 07/01/2021
TIẾNG HẠC TRONG TRĂNG Đây là tên một tuồng cải lương khoảng thập niên 60 của thế kỷ trước. Tôi không còn nhớ nội dung cũng như tài tử nào diễn vở tuồng này, nhưng chỉ tên vở tuồng thôi gợi trong tôi một cảm xúc lạ lùng. Hạc được xem là loại chim quý, linh thiêng, tượng trưng sự thanh cao, được trưng bày trong các đình miếu. Trăng tượng trương sự cao xa vời vợi. Nhưng" tiếng hạc trong trăng" sao lại gợi một nỗi cô liêu não nùng. Nhớ một lần cách nay khá lâu tôi có việc phải về quê buổi chiều. Hồi này đường xá còn khó khăn và không hiểu sao tài xế không lái xe theo đường thường lệ Sa đec - Vàm cống mà chạy lên gần bắc Cao Lãnh và theo lộ dọc kinh Cụ Hội (?) Cái Tàu Thượng về bắc An Hoà. Đường vắng, trời tối, đèn đường hiu hắt, xe ít người không ai nói chuyện, tôi có cảm giác cô đơn, sợ hãi. Mình sẽ đi về đâu?! Tự nhiên tôi nghĩ đến cái chết, sự chết. Khi đó thần thức mình thoát ra, lìa cuộc sống, lìa người thân, và... trong mông lung không ai quen biết, khủng khiếp dường nào... Các vị Đại Sư Lạt Ma Tây Tạng thường nói về cái chết, về Thân Trung Ấm là thân giữa kiếp này và kiếp sau. Những hình ảnh khủng khiếp, những muôn thú hung dữ, những sấm sét rùng rợn... Tất cả do nghiệp lực trong vô lượng kiếp mình chiêu cảm mà thành. Và chúng ta sẽ sợ hãi, hoảng loạn tìm đường chạy trốn... Cũng có những vầng sáng nhiệm mầu, chói chang nhưng ta không dám hướng về, vì tâm mông muội, chỉ tìm nơi mờ nhạt, âm u... Các vị giảng sư đã dạy rằng: Nếu tâm ta thanh cao, trong sạch, dòng tâm thức của ta là một dòng điện có tần số thanh, "cảm ứng đạo giao" tức phù hợp, cộng hưởng với chư Phật, Bồ tát và khi đó ta sẽ không sợ hãi hướng về từ lực của các Ngài... Nếu lòng ta hung ác, tâm u mê tham lam, sân hận, vướng mắc, dòng điện của tâm ta có tần số trược, chiêu cảm, phù hợp cảnh giới xấu. Ta mê muội đi vào nơi mờ ảo, tối tăm, hăm hở đi vào ác đạo vì phù hợp lòng mình... Bạn ơi, chúng ta biết vầng trăng sáng tượng trưng sự Giác Ngộ, và chim hạc thể hiện lòng vươn cao, thanh thoát... Dù cuộc đời là vùng bao la, đầy thử thách nhưng đó là trường đời để chúng ta học hỏi, tu tập, rèn luyện... Ta nỗ lực để tâm bình an, dòng tâm thức thanh sạch cao quý tương ưng với Chư Phật, Bồ Tát luôn tưởng niêm các Ngài để khi lìa xác thân này ta sung sướng tiến về luồng sáng từ bi của các Ngài... bạn nhé! 29/12/2020
CON CHUỘT Thỉnh thoảng chuột kiếm ăn vào nhà và sập bẫy. Nhà tôi không dùng "keo dính chuột" vì như thế chuột sẽ chết. Dùng rập chuột. Ngày nay người ta sáng chế nhiều rập hay, rộng rãi. Tìm mồi hay tham ăn chuột chui vào rập. Ăn no rồi muốn tìm đường ra thì bí lối. Vùng vẫy vẫn không thoát thân! Chở cả rập xuống khu Trung Sơn thả. Khu này có nhiều quán ăn. Chuột được tự do và no, không vào nhà nữa. Cuộc đời ta có may mắn như vậy không? Hay vì Tham (một trong ba độc Tham, Sân, Si) ta sập vào bẫy "keo dính chuột". Tưởng sung sướng đó, mà... Ai đủ năng lực giúp ta thoát ra khỏi cái bẫy đời này!!!??? 22/12/2020
MỘT GIẤC MƠ KỲ LẠ Tôi thấy mình đi chung đoàn khoảng 10 người đến một nơi lạ. Tôi gặp một người hơi quen, là đồng nghiệp hay giám thị một trường trong quá khứ mà tôi không nhớ ra. Anh cười chào tôi và tôi đáp lại. Trông anh khốn khó, dường như đang đẩy xe bán nước. Tôi muốn giúp đỡ. Trong tay tôi là tờ giấy năm chục ngàn và ít tiền lẻ. Một chị trong đoàn tôi chưa quen có ý mượn tôi mười ngàn để giúp ai đó. Tôi ngần ngại. Chị hứa sẽ trả tiền lại cho tôi nhưng không nói khi nào?. Tôi đem tiền tặng bạn mình. Tôi thấy đói, định mua món gì đó mà chỉ còn vài ngàn lẻ. Chợt thấy nhà tôi đạp xe chạy đến. Mừng quá, tôi gọi anh. Anh như không thấy tôi và... đi luôn. Tôi giựt mình thức dậy... Tôi đang đói... Chắc bạn cũng như tôi: trong mơ, người thân, quen dường như không biết ta là ai. Phải chăng ta chỉ do duyên mà gặp kiếp này thôi. Ngày nay xã hội lừa đảo nhiều quá. Họ giả đau yếu, què quặt, hoàn cảnh thắt ngặt, lỡ đường để xin. Ta bị gạt... rồi lòng nghi ngờ, chai sạn lòng tốt.. Nhớ một lần tôi theo đoàn đi 10 chùa. Bất ngờ gặp một chùa cần cúng dường, tôi dốc hết tiền để cúng vì nghĩ đang đi theo đoàn có thể mượn bạn hữu khi cần. Ngồi trên xe về, chợt nghĩ, nếu bất ngờ mà hết tiền ta phải làm sao?. Có cho mới có nhận. Nếu tính toán quá, khi lỡ đường khi cần ai giúp ta?! Về nói các con nghe chúng dặn: "đi đâu Má đem theo dư một chút, phòng xa việc bất ngờ..." Chợt nhớ lời Đức Phât dạy: tài sản nên chia làm bốn phần (không hẵn bằng nhau) - Một phần để sinh hoạt hằng ngày. - Một phần để tái sản xuất. - Một phần để dành. - Một phần để giúp đỡ mọi người.. Như vậy mình sẽ yên lòng. 19/12/2020
CÁC PHÁP QUANH TA Sáng nay một chị đồng nghiệp khoe đã làm xong một mẻ "cơm rượu" và hưng phấn khoe: "làm mệt quá ...mà sẽ ngon lắm đây". Tự nhiên tôi nhớ đến định luật Nhân Quả và nguyên lý Trùng trùng duyên khởi. - Vậy Nhân của mẻ cơm rượu nầy là gì?: là gạo nếp được xôi chín. - Duyên là Men, được trộn đều, ủ kín . - Và Quả là cơm rượu Điều này cho ta thấy định luật Nhân - Duyên - Quả vi tế lắm, không chỉ là "trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu" Và...Trùng trùng duyên khởi: cái nầy Sinh ->cái kia sinh...cái này diệt -> cái kia diệt... Từ gạo nếp là bột, nhờ men biến thành đường, lại nhờ men biến thành rượu...và chắc bạn cũng nghĩ như tôi: để lâu cơm rượu sẽ chua như ta làm giấm vậy...và giấm lâu ngày thành nước (lạt đi). Và như vậy ta thấy có gì tồn tại mãi? Là Vô thường đó ! Ta thường nghĩ khái niệm Vô thường một cách tiêu cực, là không tồn tại, không bền vững... Nhưng thực chất Vô thường vẫn có sự tích cực, giúp vạn vật tiến hoá như một đứa trẻ sẽ lớn lên ...đâu thể là trẻ con mãi... Và điều này cũng cho chúng ta hiểu: không có gì là Thực Có (tức Vô ngã)... Bạn cùng tôi vớ vẩn một chút nhé: Chúng ta tu pháp môn Tịnh Độ. Ba chân đế phải có là: Tín - Nguyện - Hạnh. Chúng ta đều biết: điều kiện cần là Tín và Nguyện, điều kiện đủ là Hành trì ... Tin sâu, nguyện thiết (tha thiết) để được tiếp dẫn và hành trì miên mật để được phẩm vị cao... "Lòng tin là Mẹ công đức", nếu không tha thiết tin sâu thì ta uổng công một đời hoặc nếu về cõi Tịnh độ thì cũng ở "biên địa -nghi thành " mà thôi... Thử nghĩ xem, nếu ta làm cơm rượu mà xôi nếp chưa chín tới hoặc thiếu men thì sao?... Một bài pháp giản đơn mà chúng ta nào nghĩ
|