XOA KIM
"Cho đi lại từ đầu, chưa đi vội về sau..."

CÙ LAO GIENG DẤU YÊU.

Không biết bây giờ còn ai gọi Cù lao Gieng không?
Bạn ơi, đó là tên gọi dân gian 70_80 năm trước khi tôi còn là con bé xíu xiu.
Xin cho tôi dài dòng một chút về "gia phả" nhà tôi.
Dòng tộc Ông Ngoại tôi xưa ở Cai Lậy - Tiền Giang, dạt lên miệt An Giang làm thuê, gặt lúa mướn. Nhà Ông Cố tôi rất nghèo, là tá điền cho chủ đất. Hằng năm, sau mùa lúa nộp tô xong là quét sạch sân tiếp tục đi làm thuê. Nghèo, nhưng Cố tôi quyết cho con đi học. Ông ba tôi học cùng lớp Bác Tôn (cụ Tôn Đức Thắng), Ngoại tôi học sau hai năm. Nghe Ngoại tôi kể lại, Bác Tôn từ nhỏ đã kiên cường. Một lần bị ông Đốc học người Pháp phạt, Cụ phản ứng bằng cách cạo trọc đầu.! nên học trò thời ấy nể lắm.
Nhờ học giỏi nên Ông ba và Ngoại tôi được học bổng lên học trường Chasseloup Laubat.
Hồi này chưa có xe đò nên từ Long xuyên đi Saigon bằng đường tàu chạy tuyến Phnom Penh _ Saigon. Tàu theo sông Cửu long ra biển Cần Giờ rồi theo sông Soài Rạp vào Saigon. Quá xa xôi nên chỉ dân nhà giàu theo học, rất ít người đi học. Mỗi năm, hai ông chỉ về thăm nhà một lần.
Đến năm thứ tư (4è annee), thi rớt bằng Brevet, mất học bổng, Ngoại tôi phải nghỉ học. Và, Đốc học người Pháp tuyển Ngoại tôi đi dạy.
Ngoại tôi có người bạn rất thân quê Rạch Giá, con nhà giàu.Thực ra, gốc gác Ông cũng người An Giang, làng Vĩnh Trạch. Cuối thế kỷ 19, tổ tiên ông khai hoang miệt thứ Rạch Giá, thành đại điền chủ rất giàu, là họ Bùi, họ Cao nổi tiếng một thời ở Rạch Giá. Ông này có một người cô có chồng về Trà Ôn nên Ngoại tôi từ rạch Trà Dơ (Giơ) lội bộ qua rạch Trà Ôn chơi với Ông Chín tôi. Vì sao tôi gọi là Ông Chín? - vì Bà Ngoại tôi thứ 10!
Không biết bấy giờ Ông Bà Ngoại tôi có "để ý" nhau không, nhưng khi Ông Bà Cố muốn Ông Ngoại tôi "nên gia thất" trước khi đi dạy, đã dòm ngó nhiều nơi mà ông không chịu ai.Nóng lòng Bà Cố tôi nói "hay nó để ý con T" T là tên Bà Ngoại tôi đó, Ông Ngoại tôi bật cười...
Vậy là đám cưới thôi! (thật ra bao nhiêu năm dài đám con cháu không ai dám "hó hé" xưa ông bà tôi có phải lòng nhau không. Ơn Trời, Ông Bà tôi thọ đến hơn 90)
Ngày còn nhỏ, nhiều đêm sau khi bóp chân tay cho Bà Ngoại _ bấy giờ Bà tôi gần 50 rồi _ tôi nằm bên Bà để Bà tước trứng chí cho. Bà hay kể cho đứa cháu ngoại lớn nghe chuyện Ngày Xưa.
Rằng,
Đám cưới xong, Ông Cố chở Ông Bà Ngoại tôi trên xuồng ba lá với đủ cà ràng, nồi, củi, gạo mắm, muối,...Từ ngọn rạch Trà Dơ mà qua Cù lao Gieng. Cho đến ngày nay, tôi không định nổi Cố tôi bơi xuồng theo đường sông nào. Từ rạch Trà Dơ bơi lên đầu cù lao Ông Hổ, vượt sông Hậu, qua Long Điền, Long Kiến hay Ông tôi bơi theo rạch Bò Húc, cặp sông lên Mỹ Luông rồi lại vượt sông Tiền?!
Đi, để yên lòng chỗ con đi dạy quá xa xôi, rồi thui thủi bơi xuồng về, mất bao nhiêu lâu?!
Cù lao Gieng hơn 100 năm trước còn hoang sơ vắng vẻ. Chỉ có Nhà Thờ là tôn nghiêm, uy nghi và đẹp đẽ.
Lớp học phía sau Nhà Thờ. Ông Bà tôi cũng ở đó, phía sau là nghĩa trang.
Dường như chỉ có một lớp duy nhất và Ông Ngoại tôi là người Thầy đầu tiên vỡ lòng cho đám trẻ bấy giờ. Thầy giáo NGUYỄN VĂN HẬU.
Bên cạnh Nhà Thờ có viện Nữ Tu, ở đây các Bà Phước nuôi trẻ mồ côi.
Cù lao Gieng, nơi đây là ký ức tuổi thanh xuân của cặp vợ chồng son, là lòng kính yêu của người dân với vợ chồng Thầy giáo. Tình cảm thể hiện qua nải chuối, rổ khoai, trái bắp, trái cà. Mùa nào thức nấy: xoài, mận, sa bô...
Cù lao Gieng, nơi Má tôi lẩm chẩm bước những bước đầu đời...
Đã 100 năm qua, sau này Ông Ngoại tôi đổi về dạy ở Núi Sập rồi Mỹ Hòa Hưng. Chưa một lần trở về chốn cũ nhưng Ngoại tôi luôn nhắc những kỷ niệm êm đềm thuở xưa đến nỗi in sâu vào đứa cháu ngoại là tôi. Và tôi mong có một ngày đến đây.

 

CÙ LAO GIENG DẤU YÊU (2).

Năm 1954 tôi đậu vào lớp Đệ Thất trường Thoại Ngọc Hầu. Đây là trường Trung học duy nhất của tỉnh Long xuyên lúc bấy giờ nên qui tụ học sinh ở nhiều nơi: tỉnh lỵ, Chợ Mới, cù lao Giêng, Lai Vung, Núi Sập, Thốt Nốt (lúc bấy giờ thuộc Long xuyên).
Có bốn lớp Đệ Thất, mỗi lớp 40 học sinh nên ít em nào học lớp nhất (lớp 5) mà đậu được, thường phải học lớp Tiếp Liên. Lớp tôi có 30 gái nên phải thêm 10 học sinh trai và anh Dương ngọc Chúc (đạo diễn, nhà văn, nhà thơ Lê văn Duy) vào lớp tôi.
Những học sinh "lóc nhóc", lạ lẵm, nữ với quần đen áo bà ba trắng, nam quần ngắn áo sơ mi trắng. Đến giữa năm trường bắt buộc đồng phục và chúng tôi lịch sự hẳn ra. Nữ áo dài trắngdịu dàng và nam sinh với quần tây, áo sơ mi trắng trông rất thanh lịch.
Bấy giờ chúng tôi gần quen mặt nhau. Và tôi, với tánh ganh học ăn sâu vào xương tủy từ ngày học lớp Đồng Ấu trường Sơ học Trà Ôn đã biết "đứa" nào học giỏi ở ba lớp kia.
Và "hắn" học cạnh lớp tôi. Tôi biết hắn người cù lao Giêng có ba dạy học như Má tôi.
Không biết hắn có ganh ngầm tôi không. Suốt bốn năm học TNH chúng tôi chưa chạm mặt nhau chứ làm gì nói chuyện với nhau.
Và, hơn bốn năm sau tình cờ gặp nhau trong sân trường Đại Học. Cùng quê, cùng trường cũ, đồng môn, chúng tôi mừng rỡ gọi tên nhau và... quen nhau. Thỉnh thoảng gặp nhau nói vài câu hoặc đi chung trên con đường về với một ít bâng khuâng. Cũng có khi ngồi chung bàn trong thư viện... Và một lần thư giãn chúng tôi nói về quê mình. Quê nội tôi làng Nhơn Mỹ huyện Chợ Mới cù lao Ông Chưởng. Năm1946 nhà nội tôi cháy phải tản cư, vượt sông Hậu qua Chắc Cà Đao. Năm 1946 nhà nội anh bị cháy, gia đình vượt sông Tiền tản cư qua Đồng Tháp Mười... Trên tờ nháp, hai mũi tên ngược chiều nhau và hình trên tờ giấy như một bức ký hoạ nhạt nhoà, nói lên được điều gì?!
Ra trường chúng tôi mỗi ngươi mỗi nơi và gặp một nửa của đời mình.
Thoảng hoặc, qua bạn bè tôi biết ít ỏi tin tức về anh...
Hơn năm mươi năm, qua face book chúng tôi gặp nhau. Chỉ còn tên, thời gian đã xóa mọi nét thanh xuân. Hai bên bờ đại dương, anh kể tôi nghe nơi anh ở hiện tại và sự đổi thay của quê mình và tuổi già làm anh đau đáu nỗi nhớ quê hương.
Ngày Xuân, ngồi ngắm "thung lũng hoa vàng", ngát trời màu vàng hoa poppy sao thấy nhớ cánh đồng vàng thoảng hương thơm lúa chín và màu tím hoa Mua, hoa rau muống nhạt nhòe trong nước mắt. Xa lộ thênh thang lại nhắc nhớ con đường làng ngày nhỏ rong chơi, cút bắt, chơi u... Những hàng rào dâm bụt, huỳnh anh làm duyên xanh mướt. Sau hàng rào những cây bông Trang, bông Điệp cúng luôn trổ hoa. Và nữa, sau nhà là vườn tạp với những cây ăn trái xoài, ổi, mận, sa bô... mùa nào trái ấy. Nhất là mận đỏ, mận trắng, mỗi sáng dưới gốc cây mận rụng đầy do chim và dơi ăn, rất tiếc. Những buổi trưa hè có khi chỉ cần một khúc Ô môi róc sẵn trèo lên chảng ba cây nằm nghe chim hót, gió rì rào, thoảng hương thơm các loài hoa mộc mạc, hoa ối, mãng cầu, bưởi... Trắng như bông bưởi là con gái quê mình!!. Nói gì những ngày hè, cùng nhau ôm cây chuối lội sông đua nhau làm "ông nược" hay mò ốc nhé. Ốc đắng ở mương nhà, ổc gạo đất cồn ngậm phù sa, ruột no nưỡn vàng ươm, luộc ăn vã hay Má trộn với bắp chuối làm gỏi chấm nước mắm tỏi ớt và các con của Má thay Má hái mồng tơi, bò ngót, cải trời, rau sam rau dệu để Má nấu nồi canh tập tàng với tép mồng vớt được dưới các giề lục bình...
Cù lao Giêng bây giờ đã thay đổi nhiều, vuờn cây xanh mướt xoài Đài Loan ba màu và con đường đất ngày xưa đã tráng nhựa xe chạy êm ru...
Và nhớ nhất những đêm trăng. Ở đây trăng dường như to hơn và lạnh lẽo hơn, không còn cảm giác êm đềm ngồi bờ sông ngắm mặt trời dần tắt bên kia Cồn Phước... bên kia là Mỹ Luông quê Ngoại... Trăng lưỡi liềm vươn cánh ghẹo các vì sao, trăng tròn vành vạnh êm dịu ru ngủ bờ lau....
Nhớ ...nhớ và nhớ ... nhưng bạn ơi, chắc tôi không còn đủ sức để về ...
Biết nói sao với bạn đây. Thầm nhủ tôi sẽ thay bạn về một lần. Dẫu biết rằng:
"Kho trời chung mà Vô Tận của mình riêng'"

14/06/2020