MỘT CUỘC HÀNH TRÌNH |
Ông là một trong số những người được dưỡng dục trong chuỗi hoàng hôn của nền văn học Hán- Nho trước khi phong trào truyền bá chữ Quốc Ngữ chính thức đăng quang ở thập niên 40 của thế kỷ trước. Trong buổi giao thời của văn hóa Đông- Tây và trong hoàn cảnh nhiễu nhương của đất nước bị sâu xé bởi thực dân Pháp và Việt Minh cộng sản, người trai trẻ họ Trần quyết định ly hương để tự lập thân, mặc dù đã được một gia đình địa chủ trong thôn nhận làm dưỡng tử, cưu mang từ tấm bé và đã có ý định chọn vợ cho ông. Cho dù chỉ với hai bàn tay trắng nhưng ý chí và mục tiêu của ông đã rất kiên định: phải bằng mọi cách thoát ly khỏi vùng Việt Minh kiểm soát vì không thể chắp nhận và không thể nhìn cảnh bọn vô thần đang hiện nguyên hình là những tên sát nhân cuồng tín núp dưới danh nghĩa kháng Pháp để thu quyền và gom lợi về cho bọn chúng. " Nhờ anh chuyển tiếp lời thăm hỏi đến Papa Vương Vũ, Thêm câu nói khác của thượng sĩ Lê Văn Trữ, một chiến sĩ xuất sắc trong trận Sa Huỳnh, người đã góp phần giúp ông nhận thêm một bông mai đặc cách chỉ sau khi đảm nhiệm chức vụ đại đội trưởng có 9 tháng: "...Bố Vương lo cho anh em hết mình. Rất thẳng thắn và...chịu chơi! " Mối liên hệ thầy trò và tình nghĩa chi binh đó được biểu hiện thật đậm nét khi - trong ngày lui binh từ Xã Đức Tân về Kỳ An - ông đạp trúng mìn của địch và bị trọng thương khi còn cách quốc lộ cả 2 cây số. Gãy chân, mất máu, đuối sức và đang phải vừa cầm chân địch vùa tháo lui, ngần ấy thứ có thể chôn vùi tên tuổi của bất cứ một đại đội trưởng nào khác. Nhưng con Cọp " già " dạn dày trên chiến trường có tên hiệu là Vương Vũ thì mặc dù đang chịu đau đớn thể xác, ông vẫn cố gắng chỉ huy anh em khi được các đàn em thận cận của mình thay nhau cõng, vác suốt con đường máu từ Đức Trạch ra Kỳ An, rồi từ Kỳ An ra tới quốc lộ 1. Ông chỉ bỏ lại anh em khi được tải thương cấp tốc về Đà Nẵng. Hôm đó là ngày 22/03/1975. Ngày hôm sau, Cọp già của TĐ 37BĐQ đành phải chấp nhận cho bác sĩ cưa chân hai lần để bảo toàn mạng sống vì máu bị nhiễm trùng và đã lan đến quá gối. Ông mất một chân nhưng không mất tinh thần trước cuồng lưu đỏ đang phủ chụp lên Đà Nẵng cho dù khi ra khỏi bệnh viện thì ngôi nhà trong Hòa Mỹ đã bị đám " ủy ban quân quản " tịch thu. Trong hoàn cảnh tranh tối tranh sáng của cuộc đổi đời, tìm một ngôi nhà khác không khó khăn nhưng vừa có chỗ ở thì tuy không bị đưa đi cải tạo tập trung, ông cũng bị chính quyền địa phương bắt đi học tập tại chỗ, đi mít tinh, thậm chí đi lao động liên miên mặc dù vết thương chưa kịp kéo da non. Những năm kế tiếp là cả một sự trần thân của kẻ sĩ sa cơ, một chiến sĩ bại trận và cũng như hầu hết những con dân của miền Nam khác, ông âm thầm sống bên lề thời cuộc với niềm vui duy nhứt là là chiếc máy radio transistor để nghe tin tức trên hai đài VOA và BBC Luân Đôn. Mọi thứ thông tin khác từ phí " cách mạng " ông chẳng màng tới. Cho đến năm 1979, khi chúng bắt buộc cả nhà đi kinh tế mới trên Ban Mê Thuộc thì ông biết đã đến lúc phải lìa bỏ Đà Nẵng. Nhà mất nhưng người còn, mặc dù phải tạm chia lìa bằng cách để cho cô con gái kế ở lại giữ căn nhà làm gốc để có nơi quay về nếu lỡ phải trở lại Đà Nẵng. Một năm vật vã với rừng thiêng nước độc ở buôn Thung đã làm ông và gia đình tưởng chừng như đã rơi vào tuyệt lộ vì phải tự đào đất đắp nền nhà, tự đào giếng để có nguồn nước sạch, tự xoay sở hay cắn răng chịu đựng mọi thứ bệnh trên đời bởi nhà nước chỉ cấp phát đất cho dân rồi thôi, cứ thế mà mạnh ai nấy sinh tồn. Hành động trả thù thô bạo đã nói lên dã tâm trả thù một cách kín đáo nhưng hèn hạ đàng sau những mỹ từ như: giãn dân, kinh tế mới hay lao động khẩn hoang của phe thắng cuộc. Trong lúc gần như tuyệt vọngt thì ông bắt được liên lạc với bạn bè kiêm đồng đội cũ ở Sàigòn, ông lập tức một mình đi tìm gặp họ để thăm dò đường đi nước bước rồi sau đó mới đưa cả gia đình từ Buôn Thung về Sài gòn. Nhờ sự tận tình giúp đỡ của bạn bè và cũng nhờ các " quan " địa phương đã bắt đầu biết... ăn hối lộ nên ông và cả nhà cũng đã chạy được một tờ hộ khẩu và một nơi tạm trú cho cả gia đình trong một khu phố trên đường Trương Minh Giảng. Từ ngay sau ngày bị nhuộm đỏ bởi cộng sản, trong miền nam đã dậy lên một hành động phản kháng rất ôn hòa: vượt biên! Rộn ràng nhứt là lúc có phong trào ra đi bán chính thức khởi đầu từ sau vụ đánh tư sản mại bản và trục xuất người Hoa của chính quyền trung ương năm 1978. Do đó, ngay khi vừa có nơi ăn chốn ở ổn định là ông quyết định cho gia đình tìm cách xuống ghe ra khơi. Từ 1981 cho đến 1989 gia đình ông tung hết số tiền dành dụm, chắt chiu vào việc đi tìm tự do thay vì suốt đời chịu đựng sống với chế độ phi nhân trong nước.Trời xanh không phụ lòng người! Sau nhiều lần thất bại trong việc ra khơi cũng như sau mấy lần ông bị công an thẩm vấn tại số 8 Phan Đăng Lưu về việc giấy tờ và Chứng Minh Nhân Dân do đâu mà được cấp phát, cả nhà đều lần lượt tới Mã Lai , Nam Dương rồi Palawan ( Phi Luật Tân ) sau 5 chuyến vượt biển thành công ( và vô số lần thất bại ). Nếu Hổ của thi hào Thế Lữ " gặm mối căm hờn trong cũi sắt " thì Cọp lìa đàn của Binh Chủng Biệt Đông Quân QLVNCH cũng ưu tư và trăn trở không kém về mối hận ly hương khi phải sống kiếp lưu vong. Mặc dù gia đình yên ổn sum vầy, con cái thành đạt nơi đất khách quê người là niềm tự hào thật sâu lắng trong lòng ông, nhưng bên cạnh đó là nỗi buồn cứ mỗi ngày một đè nặng lên ký ức. Ông nhớ quê xưa, nhớ kỷ niệm thời thơ ấu, nhớ cả những buồn vui, khó nhọc của gia đình mình qua hơn 15 năm lây lất sống trong ngục tù bao la của cộng sản. Ông thầm cảm ơn người vợ đã chia xẻ gian lao, khổ ải, ngọt bùi qua biết bao nhiêu thăng trầm của cuộc sống. Người vợ Lính qua mọi thời kỳ đều như thế: nhẫn nhục, trung trinh, cáng đáng một cách khéo léo để cùng chồng xây dựng mái ấm gia đình cho dù phải chuyển dời hết trại gia binh này tới trại gia binh khác. Mãnh hổ một thời xông pha lửa đạn bây giờ là một lão niên với chiếc chân giả và mảnh đạn còn nằm trong phổi. Dấu ấn binh đao vẫn hiển hiện ngay trên thân thể đã qua tuổi thượng thọ nên những lúc trái gió, trở mùa là ông lại phải chiến đấu với cơn đau thể xác như đã từng làm hơn 40 năm qua. Thể chất dù đã héo hon nhưng tinh thần thì không chút suy suyển. Ông hãnh diện vì đã phụng sự cho tổ quốc và càng không quên bất cứ trận đánh nào mình đã tham dự cho dù một bên tai đã hoàn toàn bất khiển dụng và trí tuệ đôi lúc đã bềnh bồng trôi vào cõi vô minh. Không quên quá khứ của thời chinh chiến cũng có nghĩa là ông luôn mang ơn những tử sĩ đã hy sinh trong thời lửa đạn, đặc biệt là đồng đội và chiến hữu ngay trong đơn vị của ông ngày xưa. Thân ở xứ người mà lòng vẫn hướng về quê nhà, nơi những người thân quen của ông, nhứt là những đồng đội và chiến hữu kém may mắn vẫn còn đang lây lất sống. Những đóng góp khiêm nhường vào quỹ tương trợ của riêng Liên Đoàn1 BĐQ mà ông phục vụ là một cách trả ơn những người đã hy sinh để ông được sống và cũng là sự chia xẻ của một Thương Phế Binh với một Thương Phế Binh bất hạnh hơn mình nơi quê nhà. Đó cũng là hạnh phúc ấm lòng mỗi khi nghĩ lại ông thấy mình vẫn sung sướng hơn họ về mọi mặt. Trên đoạn cuối của hành trình về nguồn, có một lão niên hằng ngày thường ngồi tựa lan can, hoặc nơi băng ghế trong công viên, ngay mé nước, để ngắm vùng vịnh êm đềm trước chung cư của mình tại vùng Quincy ( ngoại ô Boston- MA ) và mơ về Đất Mẹ cách nửa vòng quay trái đất. Trong trung tâm sinh hoạt của người già tại thành phố Boston- Massachussets có một thương binh ngoài bát thập tuy đôi lúc có lãng đãng trong cõi nhớ, quên nhưng nếu có ai hỏi về đơn vị cũ, chiến trường xưa thì họ sẽ thấy lại hình ảnh của một thanh niên đầy nhiệt huyết qua câu chuyện kể về Màu Cờ và Sắc Áo mà ông đã từng phục vụ. Người đó là ông: Đại úy Trần Văn Vương, Đại Đội Trưởng ĐĐ 3/TĐ 37/LĐ12 Biệt Động Quân, một chiến sĩ xuất sắc của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thuở xưa! THẢO NGUYÊN & HUY VĂN |