MƯỜI THÁNG QUÂN TRƯỜNG

Năm 1972 bắt đầu đỏ lửa từ khi khai diễn trận chiến tại tỉnh Quảng Trị, vào đúng ngày 30/3/1972. Sau đó, tổ quốc thật sự lâm nguy khi lửa chiến tranh, tuy không vào sâu trong các thị thành miền Nam như hồi Mậu Thân 1968; nhưng An Lộc, Kontum và Quảng Trị, đã lần lượt "anh dũng và kiêu hùng trong cơn đỏ lửa", suốt từ tháng 3 cho đến tận tháng 9 năm đó.

Cuộc chiến leo thang một cách khốc liệt. Miền Nam cần bổ sung quân số. Báo chí Sài Gòn thời đó cho biết, đã có trên dưới 10.000 thanh niên, sinh viên, học sinh bị đôn quân do không còn hội đủ điều kiện hoãn dịch vì lý do học vấn). Số lượng người nhập ngũ quá đông mà quân trường đào tạo sĩ quan trung đội trưởng tại Thủ Đức không đủ sức chứa nên- cũng như trong năm Mậu Thân 1968 - Trường Hạ Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lại nhận nhiệm vụ huấn luyện các khóa sĩ quan, song song với thời khóa biểu huấn luyện của Trường Bộ Binh Thủ Đức.

Thấm thoát đã qua 50 năm! Nửa thế kỷ trước đây, tôi không hề nghĩ mình sẽ vào lính, dù học trễ một năm vì bị ở lại lớp. Sau khi cố gắng học hành đàng hoàng, rồi trở thành "cậu Tú", tôi chỉ thỏa mãn ước mơ "Đại Học Sĩ" được đúng một niên khóa trên Đà Lạt ( 1971 - 1972 ). Vì vào "mùa hè đỏ lửa 1972", tôi trình diện nhập ngũ, theo lệnh Đôn Quân của Luật Tổng Động Viên, ban hành tháng 4 năm đó.

Tôi vốn không có ngoại hình và thể trạng thích hợp cho những sinh hoạt có tính cách ''võ biền". Huống chi tâm trạng hụt hẫng luôn đè nặng trong lòng, sau khi những mơ ước cho tương lai đã tan vỡ. Cộng thêm lo lắng và muộn phiền của gia đình, đã làm tôi chao đảo không ít. Nhưng bản chất con người vốn dễ thích ứng với hoàn cảnh; nên ngày qua ngày, những ưu tư, bỡ ngỡ ban đầu đã nhường chỗ cho tâm trạng dấn thân và chấp nhận, qua những buổi tập luyện bất kể ngày đêm hay mưa nắng tại Đồng Đế.
50 năm! Khoảng thời gian đủ dài để trí nhớ bắt đầu cùn mằn và kỷ niệm cũng dần dà mờ nhạt. Chuyện vui buồn của thuở quân trường thì ai cũng có. Mỗi người trong chúng ta đều có một ngăn ký ức để lưu trữ và trân trọng. Từ sau ngày trình diện nhập ngũ tại Quân Vụ Thị Trấn cho đến khi ra đơn vị; mỗi ngày là một bước cách xa mảnh đời yên ấm, hồn nhiên của thời dân chính và của tập vở học đường, để thấy mình tiến gần hơn nữa về phía nghiệt ngã của khói lửa chiến chinh.
50 năm! Mới hôm nào còn là trai tráng của lứa tuổi đôi mươi, bây giờ đã lên hàng "đồ cổ", nên hình ảnh trong đầu nhiều khi lộn xộn và ngày tháng cũng nhạt mờ như có màn sương che chắn. Tuy vậy, cũng vẫn nhớ vô vàn những bè bạn quân trường; cùng những hình ảnh đậm nét như in trong tâm não, dù đã qua nửa thế kỷ và ngút ngàn dâu bể.
Làm sao quên buổi sáng đầu tiên đặt chân lên bãi cát của Trại Tiếp Nhận! Mỗi lần nghĩ tới Đồng Đế của ngày đầu hội nhập, là câu hỏi “sấm sét“ giữa trưa nắng của một "lá phổi quân trường", cứ vang vọng không nguôi. “Có ai biết đây là đâu không?!“. Câu hỏi dẫn tới 20 cái hít đất của người sau này có biệt danh là “Qúy mát“. Bạn là Nguyễn Văn Dân Qúy, người đầu tiên - ngay khi chưa "xuống tóc" để trở thành Tân Khóa Sinh thuộc Đại Đội 727 - đi vào lịch sử Khóa 4/72B, khi làm tới làm lui 20 cái hít đất, vì trả lời không đúng ý của người Trung Sĩ thuộc Ban Tiếp Nhận.
Lại một cái đầu tiên khác của ĐĐ 727 làm tôi cảm thấy…lo lắng! Đó là anh bạn Tiêu A Lam - cũng của ĐĐ 727 - là người đầu tiên của Khóa 4/72B té xỉu; vì không chịu được cơn nắng lúc 10 giờ sáng của Đồng Đế, khi cả Tiểu Đoàn 3 SVSQ ra mắt Tướng Võ Văn Cảnh trong ngày đầu nhập khóa huấn luyện. Nhìn anh bạn to con, trông rất ngầu hầm; nhưng lại bị chảy máu cam ( do đứng lâu ngoài nắng gắt ) được dìu về “Sam”, mà tôi vừa tội nghiệp cho bạn, vừa thầm nghĩ tới mình vốn chỉ đứng cao tới lỗ tai của anh bạn gốc Tiều này!
Tuy vậy rồi cũng quen dần với câu “Thao Trường đổ mồ hôi. Chiến trường bớt đổ máu“. Chưa xong 8 tuần huấn nhục, là tôi cùng một bạn gốc Hướng Đạo xin chuyển qua Trung Đội 4, để sinh hoạt với các bạn Đà Lạt của tôi. Đại úy Trương Tấn Anh, Đại Đội Trưởng của 727 chọn Lâm Hoài Nam ngay lập tức; còn tôi thì phải chờ tới lúc một bạn của trung đội 4 lên cơn suyễn, không vác đạn nổi, mới được ông Anh cho đổi từ Trung đội 1 qua Trung Đội 4 "súng nặng".
Chuyện quân trường kể hoài không hết, vì mỗi ngày là một chương mới của đời người tân binh. Mỗi người là một ốc đảo riêng biệt, được liên kết bởi những kỷ luật của Quân Trường và Quân Đội. Nói đến ốc đảo, tôi nhớ ngay tới anh bạn có biệt danh là Đỉnh “lùn“. Người bạn thi sĩ của thời góp mặt trong cùng một Thi Văn Đoàn với tôi 3 năm trước đó ( Nhóm Văn Nghệ Đan Tay ) hoàn toàn khép kín trong nội tâm của chính mình.
Rất hiếm khi thấy Đỉnh góp chuyện với đồng đội. Họa hoằn lắm mới có một nụ cười. Nhưng anh bạn có chiều cao rất khiêm nhượng này không hề mích lòng một ai; cũng không phiền lòng người nào về bất cứ điều gì, kể cả khi biết bạn bè hay xì xầm về thước tấc và “dung nhan không có mùa xuân“ của mình.
Tiểu Đoàn 3 SVSQ của Khóa Dân Chủ có 4 Đại Đội. Tổng cộng gần 600 SVSQ. Ngần ấy người là bấy nhiêu "thế giới" riêng lẻ. Không thể nhớ hết những đồng đội của thời "Trưa canh cải, chiều cải canh, cá mối! Cơm nhà bàn nước muối thế nước tương...". Nhưng cũng rất khó quên "vài gương mặt của đám đông", nhứt là những ai có cá tánh nổi bật, hay hình dáng "đặc biệt" của họ.
Chẳng hạn như ĐĐ 727, có Lương Tấn Hồng- còn gọi là Ngựa Trời- do tướng đi xà bát và thân hình cao lêu nghêu của anh bạn chửi thề như…uống nước này. Hay "cô Tư Chương" của ĐĐ 728, tay văn nghệ "gạo cội" của Khóa 4/72B; qua vóc dáng "ẻo lả" và gương mặt điển trai "vượt thời gian", cùng giọng hát "chuyên trị" loại nhạc trữ tình lãng mạn của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước.
Có lẽ do nhu cầu khẩn cấp của Quân Đội, nên lệnh Đôn Quân năm 1972 đã "bứng giò" không chỉ những chàng trai mới đôi mươi vốn "ham vui nên ở lại lớp" ( không đủ tiêu chuẩn hoãn dịch vì lý do học vấn ), mà còn nhiều người xấp xỉ, hoặc đã ngoài lứa tuổi 30. Trong số đó, có anh Lê Quyền, Thư Ký Tiểu Đoàn, Trưởng Ban Báo Chí, kiêm Trưởng Ca Đoàn công giáo; hoặc anh Trịnh Ngọc Luyện, Tiểu Đoàn Trưởng Khóa Sinh của TĐ3 SVSQ/ Khóa 4/72B chúng ta. Ngoài ra, còn có người đã nổi danh ngoài đời sống dân sự, như nhà văn Mang Viên Long chẳng hạn. Anh hiền hòa, dễ mến nhưng cũng là một "ẩn sĩ" bất đắc chí của ĐĐ 730.
Thời gian của khóa huấn luyện quân sự, nhằm đào tạo sĩ quan trung đội trưởng bộ binh là 6 tháng. Nhưng vì Hiệp Định Paris dự trù sẽ được ký kết ngày 27/10/1972, nên một tuần trước đó, tất cả các SVSQ của Thủ Đức, Đồng Đế và Võ Bị Đà Lạt đều được điều động về các quân khu; để giúp giải thích với đồng bào về nội dung của văn bản, đồng thời phụ giúp giữ an ninh lãnh thổ với các đơn vị địa phương, nhằm ngăn chặn địch giành Dân, lấn Đất.
Công tác CTCT của SVSQ Đồng Đế bắt đầu từ ngày 19/11/1972 và kết thúc vào ngày 31/3/1973; chia ra làm hai giai đoạn, với một tuần về lại Đồng Đế để thảo luận và bổ túc kế hoạch. Cả hai đợt “ra quân“ của Đồng Đế đều có chuyện không may. Nhưng đáng ghi nhớ hơn hết, là tai nạn “giao thông“ thật hy hữu, xảy ra tại con dốc Lương Sơn, Xã Chợ Lầu, Quận Hòa Đa ( Bình Thuận ) giữa chiếc L19 và chiếc GMC chở "Toán công tác CTCT quận Hòa Đa" gồm 20 mạng của chúng tôi.
Toàn bộ tai nạn xảy ra như một khúc phim chiếu chậm, ngay trước mắt anh bạn có biệt danh “mì đường“ và chính bản thân tôi; vì chúng tôi ngồi ở giữa lòng xe, trên đống ba lô và sac marin của cả toán và quay mặt về phía sau. Trong khi đó, mọi người khác ngồi thò chân ra ngoài thành xe. Các bạn ngồi như vậy, để chờ đến khi về tới quận Hòa Đa, sẽ vẫy tay chào những gương mặt quen biết trong số Quân cũng như Dân, đứng hai bên đường. Tất cả chúng tôi đều đội bê rê. Tất cả! Ngoại trừ bạn Võ Công L‎ý.
Chiếc L19 xà xuống quá thấp, trong khi đó GMC lại đang lên dốc. Máy bay đột nhiên “ho“ lên vài tiếng. Cánh quạt ngừng quay ngay lập tức. Chiếc “đầm già“ lắc lư như để giữ thăng bằng, rồi lướt qua xe GMC bây giờ đã ở ngay trên đỉnh dốc. Một tiếng “RẸT“ nghe y hệt như tiếng róc mía vang lên; khi cánh máy bay móc vào mấy khung sắt vốn để căng bạt làm mui, đã được kéo lên và xếp gọn sau lưng cabin xe, phía bên tài xế.
Nhưng trước đó một tích tắc thì cánh sắt đã liếm ót một bạn, đủ để anh chàng vui tánh Quách Mâu Hỷ lạnh gáy. Bạn không hề hấn gì cả ( vì ngồi quay mặt vào trong khung xe, thay vì nhìn ra đường như các bạn khác) Nhưng 5 người còn lại thì bị "vớt trán". Máy bay lật úp bên kia đường sau cú va chạm. Chiếc quân xa đổ một đoạn dốc rồi mới dừng hẳn lại.
Cả 5 bạn hôn mê ngay lập tức. Chỉ riêng có Võ Công Lý thì không thấy vết máu, mà phía sau ót lại sưng to, phồng lớn gần bằng một quả trứng gà. Chúng tôi đoán là cánh máy bay - với tốc độ còn khá cao - đã chặt mạnh vào nón sắt. Khi bật ngửa ra phía sau, bạn Lý đập ót vào khẩu súng của ai đó không chừng. Những người bị thương, kể cả hai sĩ quan hoa tiêu và quan sát viên, được một chiếc xe đò tải thương về bệnh viện Phan Rí Cửa, để sau đó được trực thăng bốc về Quân Y Viện Nguyễn Huệ ở Nha Trang.
Hôm đó là ngày 19-01-1973, ngày toàn thể các Tiểu Đoàn SVSQ về lại Đồng Đế và cũng là ngày Sinh Nhật nhớ đời của chính tôi. Một tuần sau, các Khóa lại lên đường tham gia công tác CTCT đợt II. Đêm trước khi rời quân trường, chúng tôi nhận tin bạn Lý qua đời. Các bạn khác đều trên đà bình phục. Võ Công Lý yểu mạng chỉ vì...cái nón sắt, lúc chỉ mới 20 tuổi!
Chuyện vui, và những kỷ niệm đáng nhớ của thời gian 10 tháng sinh hoạt với nhau cũng khá nhiều. Nhiều lắm! Có thể nói là không thể nhớ hết. Dù vậy, lúc nào tôi cũng hình dung được những nụ cười hồn nhiên của các bạn cùng Đại Đội và những gương mặt có biệt danh được đồng đội đặt cho.
Điển hình là Hoàng “nhảy dù“. Anh bạn chuyên đi phá cờ thế ( khi chúng tôi công tác tại Bình Định ) này ngủ gục nên rớt từ trên GMC xuống đường, lúc từ bãi Tiên trở về quân trường sau ngày học chiến thuật từ sáng đến đêm. Rất may Hoàng chỉ bị mẻ răng và xây xát ngoài da mà thôi.
Rồi còn “binh ngố“ Tuyển, “răng khểnh“ Nguyễn Duy Tân, “lùn mã tử“ Nguyễn Ngọc Đỉnh, " ngựa trời" Lương Tấn Hồng…v/v... Chỉ riêng ĐĐ 727 thôi, mà đã có ngần ấy "nhân vật đặc biệt". Huống chi mỗi người là một khung trời hồn nhiên của tuổi thanh xuân trót dấn thân vào định mệnh! Khác nhau về nhiều mặt, nhưng lại gần nhau trong cùng một hoàn cảnh sinh hoạt, nên không thể không trân trọng những thời khắc đã qua trong đời nhau.
Ngày gắn “con cá“ lên cầu vai, ngày gắn “quai chảo“ lên cổ áo, những buổi chiều đi phép Nha Trang trở về là những dịp rộn ràng của bước chân tập diễn hành quanh vũ đình trường cho các bạn…có thước tất. Lần nào ra sân so hàng để chọn 81 mạng ( 9x9 ) cho đội hình thao diễn, thì đám “thiếu thước tất“ chúng tôi cũng đều bị loại. Khỏe re!
Nhưng khỏe hơn nữa là vì có chân trong ban Văn Nghệ của Khóa, nên toàn ban chúng tôi được miễn tạp dịch và trực gác. Đặc biệt là trong lúc cả Khóa hai lần hì hục leo lên Hòn Khô ( rờ anh Cù Lần lấy hên! ) theo truyền thông gắn Alpha sau 8 tuần huấn nhục và trước ngày mang lon Chuẩn úy, thì anh em ban Văn Nghệ tà tà thức khuya…dậy trễ, rồi lội xuống Hội Trường dợt văn nghệ với mấy nàng “Cá Mối“ của Đại úy Nguyễn Đình Kế, tức nhạc sĩ Anh Linh, Trưởng phòng Chính Huấn. Đến khi bên ngoài tắt đèn để chuyển lửa từ Hòn Khô xuống Vũ Đình Trường, thì chúng tôi cũng đứng trong “Sam“ móc con cá ( lúc gắn Alpha ), hay quai chảo ( lon chuẩn úy lúc mãn khóa ) tự mình gắn lên áo.
Nhắc tới văn nghệ là thấy nhớ Thái “rỗ“, Trung “xèng“ với những bản nhạc của CCR, Hiếu “Ziên Hồng“ trong hoạt cảnh cầm loa làm Lính thú và bài “Nghìn Trùng Xa Cách“. Nhớ ba chàng “Du Ca súng nặng“ của ĐĐ 727 ( Thắng, Tân, Nam ) cùng với ba chị ca sĩ phòng Chính Huấn trong bài Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội. Không biết ai là người đã đặt biệt danh “Cá Mối“ cho mấy cô "dân chính ăn lương lính" này, nhưng có điều chắc chắn là bàn tay đan khi trình diễn đã "....rưng rưng truyền hơi ấm tình thương. Hẹn nhau mùa xuân ấy tao phùng." là cái chắc.(*)
Rồi tới anh Lê Quyền, tác giả bài “Tiểu Đoàn 3 SVSQ Hành Khúc”, cũng là người "ôm" một lượt 3 chức: Trưởng ban Văn Nghệ, Trưởng ban Báo Chí, kiêm Trưởng Ca Đoàn công giáo. Đặc biệt hơn hết là “cô Tư Chương“, anh bạn mình dây ẻo lả như con gái của hoạt cảnh “Tiếng Trống Mê Linh" ( Văn Nghệ trong Lễ gắn Alpha ); người có chất giọng mượt mà, rất trữ tình trong bài hát để đời “Đêm Tàn Bến Ngự“ của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước ( Đêm Văn Nghệ Mãn Khóa ).
Đi phép cuối tuần cũng là một cái thú…lang thang cho qua thì giờ của đám “con bà phước“. Vì Đồng Đế không có tiêu chuẩn đi phép qua đêm mà chỉ có phép trong ngày ( 8 tiếng ) nên lần nào cũng vậy, quanh đi quẩn lại cũng chỉ là bida, cà phê nhạc, hay xi nê trên phố Độc Lập hoặc các đường phố lân cận. Còn không thì mọi người la cà ngoài bãi biển Duy Tân ngồi ngắm trời xanh, sóng bạc, nắng vàng rồi …lim dim ngủ chờ tới giờ trở vào quân trường.
Nha Trang là một thành phố biển và cũng là một thành phố Lính. Mùa Tổng Động Viên năm 1972 là lần đầu tiên và cũng là lần duy nhứt màu áo tiểu lễ của Đồng Đế có dịp “ cạnh tranh “ với quân phục dạo phố của Hải Quân và Không Quân trong khoảng thời gian kỷ lục: suốt từ mùa hè 1972 cho đến mùa thu 1973!
Rồi cũng đến lúc mỗi người một ngã. Một ngày sau khi gắn lon chuẩn úy, là ngày hội của các quan…nhí! Mấy đơn vị nổi tiếng, gồm Nha Kỹ Thuật, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân tha hồ thuyết trình rồi xem giò xem cẳng các Chuẩn úy “sữa“. Tiêu chuẩn chọn lựa thay đổi tùy theo binh chủng.
Nha Kỹ Thuật/Phòng 7 Bộ Tổng Tham Mưu và Nhảy Dù chỉ lấy người nào cao 1 mét 70 trở lên và phải …” không cận thị, cánh tay không bị cáng giá, lỗ đít phải có lông tề… “ ( để làm gì không biết!!! ). TQLC thì nhẹ hơn một chút. Phải cao từ 1 mét 65 trở lên . Còn những tiêu chuẩn khác cũng y hệt như hai binh chủng kia. Riêng BĐQ thì vị Đại úy trưởng ban Tuyển Mộ chỉ từ tốn “phán“ :
“ …Biệt Động Quân chúng tôi không cần cao lớn. Không cần gì cả! Cận thị cũng được! Nhỏ con càng tốt vì địch không thấy mình ở đâu để bắn tỉa! Chỉ cần đủ sức khỏe và chịu đánh giặc mà thôi!...”
Có lẽ vì mấy câu này của vị Đại úy cao chừng 1 mét 60 nên lúc lên chọn đơn vị, tôi đã không ngần ngại ghi tên vào khung dành cho BĐQ ở phía dưới cuối bảng. Tôi tốt nghiệp hạng 303 trên tổng số hơn 500 mạng ra trường. Lúc lên đứng nhìn bảng danh sách (Bảng A) thì tất cả những Sư Đoàn và Tiểu Khu thuộc Vùng 3 và vùng 4 Chiến Thuật đều hết chỗ, kể cả những Tiểu Khu nổi tiếng là ổ của Việt Cộng ( Kiến Hòa, Kiến Phong, Kiến Tường, Mộc Hóa…)
Chỉ còn một chỗ duy nhứt là ở Sư Đoàn 21BB tại Bạc Liêu mà thôi. Nhưng trong vài giây phút, là tôi quyết định ghi tên trở thành “con Mèo xì dầu“. Phía bên kia ( Bảng B ), Lê Hùng Sơn cũng làm như vậy. Sau tôi là Kiệt “mã tấu“ của ĐĐ 727 cũng chấp nhận làm “Cọp Nhí“. Tổng cộng, nếu tôi nhớ không lầm, thì Khóa 4/72B có trên 30 người ghi danh về binh chủng Biệt Động Quân.
Người ta thường chế diễu những người như chúng tôi là bị “Cọp liếm“ nhưng sự thật là chính tôi hạ bút ( Bic mực đỏ ) ghi tên chấp nhận cuộc đời tác chiến sau này. Đại Đội 727 có tổng cộng 9 người là Kiệt “mã tấu“ , Kiệt “xì ke“, Sơn “chẩu“, Ước “lùn“, Lê Hùng Sơn, Tiêu A Lam, Trương Thành Tuấn Ngà, Phạm Hồng Hưng và tôi cùng về BĐQ.
Ngày giờ này, 50 năm về trước Quân Lực VNCH có thêm 540 tân Sĩ Quan. Các Chuẩn úy "sữa" của ngày xưa bây giờ đã có người về cõi vĩnh hằng, đã có bạn mang hình hài thương phế. Tóc xanh ngày nào giờ đã điểm sương. Có người còn nơi quê nhà. Một số đang xa quê hương.
Những dòng hồi ức này xin được thay nén hương lòng thắp muộn gởi đến đồng đội Tử Sĩ, để nhớ thời dấn thân vào cuộc chiến. Đồng thời, đây cũng là những thăm hỏi ân cần nhứt của tôi đến quý bạn đồng khóa - những chứng nhân ( và cũng là nạn nhân ) của lịch sử và thời cuộc nước nhà - nhân ngày kỷ niệm lễ Mãn Khóa năm xưa của Tiểu Đoàn 3 Sinh Viên Sĩ Quan/Khóa Dân Chủ 4/72B.
Huynh Đệ Chi Binh Muôn Năm!!!

HÙYNH VĂN CỦA. Danh số 005/ ĐĐ 727

(*) Bài Tân Cổ Giao Duyên tựa đề Chuyến Xe Cút Kít- Nghệ Sĩ Út Trà Ôn.