HÒA ĐA, MÙA CHIẾN DỊCH

( Để tưởng nhớ hương linh cố Trung úy Tăng Thành Đồng và cố Sinh Viên Sĩ Quan Võ Công Lý )

Đoàn công voa rời Đồng Đế để xuôi nam vào một sáng trời trong của ngày Chúa Nhựt 19-11-1972 mang theo Đại Đội 727, Tiểu Đoàn 3 SVSQ ( Khóa 4/72B ) gồm 147 Sinh Viên Sĩ Quan vừa mang “ con cá “ trên cổ áo đúng 2 tuần lễ. Công tác chiến tranh chính trị nhằm giải thích Hiệp Định Paris sắp được chánh thức công bố đã giúp cho mọi người có dịp ra khỏi vòng rào của “ Lò Luyện Thép “  sau gần 3 tháng miệt mài với quân phong, quân kỷ và vất vả với huấn nhục triền miên. Một ngày họp nghe phổ biến tin tức chiến dịch và một đêm nôn nao, bàn tán công khai về vùng đất sắp đặt chân đến đủ để một số bạn trong chúng tôi mất ngủ. Bình Thuận! Tên nghe rất quen vì ai cũng biết nước mắm của Phan Thiết nổi tiếng ngang hàng với Phú Quốc. Nhưng chỉ có vậy thôi. Còn lại là những hiểu biết  rất đại khái về vài câu chuyện liên quan tới thi sĩ Hàn Mặc Tử  tại nơi này. Vì vậy ai nấy đều nóng lòng muốn biết những gì sẽ chờ đón chúng tôi vào những ngày sắp đến.

Đoàn xe từ tốn lăn bánh trong nắng gió của mùa thu vùng duyên hải, và trong tâm trạng háo hức của mọi người khi được thoải mái về mọi mặt sau mấy tháng bị gò bó trong khuôn phép của quân trường. Chuyện trò như bắp rang. Tiếng cười như pháo nổ. Chỉ khi qua Phan Rang một đoạn, vừa đến Nho Lâm, sát ranh giới Ninh Thuận và Bình Thuận mới có chút hồi hộp, căng thẳng, khi chờ L19 bay lên hộ tống về Phan Thiết cho an toàn vì đoạn Cà Ná - Tuy Phong là một con đường thẳng tắp, một bên núi cao, bên kia biển sóng, vắng vẻ và khô khốc, là nơi địch thường hay phục kích quân xa hay chận xe dân sự. Nhưng nhờ “ Đầm Gìa “ trên không, an ninh lộ trình dưới đất, nên đoàn GMC  đã thẳng một đường vào thị xã Phan Thiết và dừng ngay trước Tòa Hành Chánh sau cuộc hành trình dài 250 Km.

Đại Đội được cho vào ở ngay trên sân thượng của Tòa Hành Chánh, ngay cạnh Câu Lạc Bộ Đào Viên. Tiếng nhạc, tiếng cười nói, pha lẫn tiếng banh tennis chạm vợt, chạm sân, dội lên nghe rõ mồn một. Buổi chiều tan sở, an lành và ấm cúng tạo nên cảm giác thật hạnh phúc trong lòng những người mới rời khỏi đời sống dân sự không bao lâu. Vì vậy đã có một số khá đông Alpha chạy ngay xuống quán ăn của Câu Lạc Bộ để nốc men bia và thưởng thức khung cảnh thời thượng và an bình của chốn hậu phương trước khi trở lên lầu theo lệnh tập họp của Đại Đội Trưởng Khóa Sinh. Tiền lương mới lãnh hôm qua để lâu nặng túi, cộng thêm được xã trại để ăn cơm chiều tự túc nên sau khi Thiếu úy ‎ Danh, Sĩ Quan Cán Bộ (Đại Đội Phó) vừa thông báo và dặn dò những điều cần thiết xong là cả đám bê rê xanh biến thật nhanh ra cổng để qua cầu trên sông Cà Ty, vào phố Phan Thiết. Dù chỉ có vài tiếng “ toàn quyền “ nhưng khi trở lại cho kịp lúc tập họp điểm danh thì mọi người đã có những mẫu chuyện và tin tức trao đổi suốt đêm không hết.

Hôm sau, chúng tôi qua hội trường của tòa hành chánh để gặp Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng: Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa. Ông thân mật và niềm nở đón tiếp chúng tôi như đã từng gặp qua. Không có thuyết trình một cách chánh thức, nhưng qua cách nói chuyện tưởng chừng như là những lời hàn huyên lại chứa đựng mọi dữ kiện thông tin về tình hình quân sự và an ninh của toàn tỉnh. Không khí cởi mở và thân tình làm chúng tôi lần hồi cảm thấy tự nhiên hơn và dạn dĩ hơn khi từng nhóm được các vị sĩ quan của Tiểu Khu cùng với vài vị công chức trong tòa Tỉnh hỏi han đủ chuyện.

Cơm trưa do Tiểu Khu khoản đãi và ngay chiều hôm đó, đích thân Đại Tá Nghĩa hướng dẫn cả Đại Đội đi thăm phi trường Phan Thiết nằm ở phía nam thị xã. Nhưng sự ưu ái của Tiểu Khu không dừng ở đó. Ngày kế tiếp, trong khi chờ đợi các quận báo cáo nhu cầu quân số công tác, Đại Tá Nghĩa còn cho cả Đại Đội du lịch một vòng các nơi nổi tiếng của thị xã và vùng phụ cận, đặc biệt là Lầu Ông Hoàng phía bắc Phan Thiết. Ngoài những ưu ái vừa kể, Đại Tá Nghĩa còn tổ chức một tối văn nghệ nhằm thắt chặc thân tình giữa những người sắp  “ nhập cuộc “ như chúng tôi với những “ tay súng, tay đàn” của Tiểu Khu. Và tất nhiên nhóm văn nghệ bỏ túi của ĐĐ 727 đã không bỏ qua cơ hội được dịp sống lại những giây phút thoải mái như thời còn ở ngoài đời sống dân sự qua những bản nhạc thời danh, vài bản nhạc ưa thích của giới kaki cũng như vài bài hát cộng đồng thường nghe trong những sinh hoạt hướng đạo.

Sáng thứ tư 22-11-1972, vừa phân toán xong là có xe của các nơi về đón từng nhóm SVSQ đi công tác tại các quận của Bình Thuận. Sau những lời dặn dò của một vị Sĩ Quan của Tiểu Khu là GMC của các quận cực bắc gồm Tuy Phong, Hòa Đa và Phan Ly’ Chàm vì ở khá xa nên khởi hành ngay. Toán Hòa Đa chúng tôi gồm 20 người. Trưởng Toán là Lâm Hoài Nam và chúng tôi đảm nhiệm vai trò liên lạc viên kiêm trưởng nhóm thuyết trình gồm 4 SVSQ có chút khả năng về thông đạt và giao tế. Một lần nữa chúng tôi lại bồn chồn lo nghĩ về những ngày sắp tới và lần này thì đa số thời gian được dành cho việc nhìn ngắm cảnh vật hai bên đường hay chong súng quan sát bờ bụi tại những nơi khả nghi theo lời hướng dẫn của vị sĩ quan của ban 5 Chi Khu Hòa Đa mà sau này chúng tôi mới biết là Thiếu úy Đồng.

Công việc đầu tiên của Thiếu úy Đồng khi về đến Quận Đường kiêm Chi Khu Hòa Đa là đưa chúng tôi vào phòng họp của Chi Khu và cho biết vì phương tiện eo hẹp nên chúng tôi sẽ sinh hoạt và cư ngụ tại đó trong suốt thời gian công tác chưa biết là sẽ kéo dài trong bao lâu. Trung úy Mẫn, trưởng ban 5 của Chi Khu, thay mặt Thiếu Tá Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng Dụng Văn Đối, chào đón chúng tôi và vắn tắt trình bày tình hình quân sự cùng những sinh hoạt dân chính và kinh tế của quận Hòa Đa. Ngay sau đó, chúng tôi được khoản đãi một bữa cơm chiều thịnh soạn tại một quán cơm ven đường, vốn là nơi dừng lại của rất nhiều xe đò liên tỉnh.

Trong khi chờ đợi công tác chánh thức, chúng tôi được Trung úy Mẫn đưa đi thăm viếng một vài nơi trong quận, đặc biệt là Phan Rí Cửa và xã Thượng Văn là những nơi tiêu biểu cho sự phồn thịnh của kinh tế và ngư nghiệp. Riêng Thượng Văn còn là danh xưng được chính Tổng Thống Ngô Đình Diệm đặt cho để nói lên vẻ đẹp rất hài hòa gi ữa Trời, Đất, Nước và cả Con Người. Toán công tác chúng tôi chưa ‘ nhập cuộc “ mà đã được khoản đải hai lần tại Phan Rí. Lần đầu là của thân hào nhân sĩ trong vùng. Lần thứ nhì là do Hội Người Hoa tổ chức. Khi thấy chúng tôi áy náy vì những tiếp đón quá hậu hỉ, Trung úy Mẫn ôn tồn giải thích là mọi việc đều phát xuất từ truyền thống hiếu khách lâu đời của người dân địa phương, đồng thời cũng là một cách để biểu lộ sự thân tình của quân và dân tại một nơi khá an ninh về mọi mặt.

Sinh hoạt ban đầu của chúng tôi có phần bị trở ngại về nhiều mặt. Lúc đầu muốn đi tắm giặt thì cả toán phải băng qua quốc lộ, băng qua các dãy nhà để  xuống sông Lũy. Vừa phải chọn nơi vắng vẽ, xa nhà dân, vừa phải thay nhau canh gát …cho chắc ăn, nên mọi công việc đều chỉ qua loa để chạy đua với thời gian. Chỉ cần nhìn dãy đồi bên kia bờ sông là cả đám lạnh cẳng dù được đoan chắc là an ninh tuyệt hảo. Riêng về việc sinh hoạt ngay tại hội trường cũng gặp những khó khăn tất yếu mặc dù cả toán cố gắng tối đa để khỏi làm phiền mọi người nhứt là phải kê, gom bàn ghế để lấy chỗ ngủ, còn túi quân trang và súng đạn thì chất đầy trên sân khấu vốn đã chật hẹp. Nhưng nhờ vậy mới thấy được thạnh tình của Thiếu Tá Đối dành cho đàn em thuộc vào hàng “ tép riu “ như chúng tôi. Chỉ mấy ngày sau là ông cho kéo mỗi ngày hai xe nước cho chúng tôi tha hồ xử dụng và cho lệnh dẹp hết những gì không cần thiết trên sân khấu, kể cả một bộ trống “ Đức Thắng “ còn khá tốt, để lấy chỗ cho cả toán gom những vật dụng cá nhân, kể cả súng đạn, vào một chỗ. Còn bàn ghế thì dời bớt hai dãy ở cuối phòng để thêm chỗ trống cho “ … mấy em nó có chỗ ngủ đàng hoàng”. Việc canh gát cũng được “ miễn lễ “ tối đa và khu vực bố phòng khi hữu sự là bờ tường sát với khu vực phòng thủ của pháo binh diện địa ở kề bên. Trong hai tháng công tác, chúng tôi chỉ hai lần vọt ra hố cá nhân và ngồi trong lô cốt cạnh câu lạc bộ. Lần đầu là vì 2 trái 57 ly của địch từ bên kia sông Lũy bắn qua. Chúng bắn vội rồi bỏ chạy nên đạn chỉ xẹt qua rồi cắm xuống thửa ruộng sau quận đường. Lần thứ nhì là có báo động đề phòng địch tấn công quận lỵ, cả hai lần đều bình yên và vô sự.

Chỗ ở đã ổn định, nơi ăn cũng được Chi Khu lo lắng thật chu đáo. Toán công tác được gia đình người chủ quán cơm ở cuối phố nhận lời nấu ăn mỗi ngày với một giá rất hời. Một phần là do thạnh tình của chủ nhân, phần lớn chắc chắn là do uy tín của giới chức địa phương đối với người dân trong vùng trách nhiệm, đồng thời cũng là tài ngoại giao của ban 5. Chúng tôi đựơc tiếp đãi thật chu đáo và có lúc cứ như là người trong gia đình không hơn không kém. Cảm động nhứt là  tiền nong chỉ ở mức tượng trưng mà ẩm thực thì không thua bất cứ thực khách đường dài nào cả. Ngoài ra, câu lạc bộ trong quận đường cũng là nơi đám “ con bà phước “  ghi sổ đều đặn mặc dù không ai biết thời gian công tác sẽ kéo dài bao lâu.

Nói đến công tác thì phải nhắc đến sự gắn bó của Trung úy Mẫn lúc ban đầu và sau đó là Thiếu úy Đồng từ giữa tháng 12 cho đến ngày sau cùng. Ngoài những lo lắng về tiện nghi vật chất, hai vị Huynh Trưởng này đã là những điểm tựa tinh thần và kho kinh nghiệm cho cả toán chúng tôi về mọi mặt: từ đời sống quân ngũ cho tới công tác chuyên môn của ngành Chiến Tranh Chính Trị, đặc biệt là Thiếu úy Đồng đã tận tình chỉ vẽ từng cách giao tiếp với cả quân lẫn dân, cũng như gợi thêm nhiều khía cạnh cần đào sâu của Hòa Đàm Ba Lê mặc dù chúng tôi đã đọc, nghe và được chính Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy thuyết trình lúc còn theo học trên Đà Lạt. Nhờ vậy khi được giao nhiệm vụ giải thích Hiệp Định Paris tại Xã Chợ Lầu và “ múa rìu qua mắt thợ “ ngay trong sân Trường Trung Học Phan Rí Cửa, nhóm chúng tôi đã  hoàn tất công việc một cách suông sẻ mặc dù trong thành phần dự thính của Trường Trung Học Phan Rí có một số thầy cô tham dự. Không biết trong các vị đó có mặt nhà văn Đoàn Thạch Biền hay không. Nếu có, chắc chắn là ông thấy ngay và chỉ biết lắc đầu thông cảm cho sự  “ bình tĩnh mà run “ của chúng tôi.

Ngoài hai lần “ thuyết trình “ như vừa kể thì chúng tôi không có công tác nào khác liên quan đến việc giải thích Hiệp Định Ba Lê cho dân chúng trong quận. Thay vào đó là những lần tham gia hành quân bình định, tảo thanh các xã  phía bắc như Lâm Lộc, Thượng Văn…và an ninh quốc lộ quanh vùng Hòa Đa do các đơn vị Địa Phương Quân và cơ hữu của Chi Khu tổ chức. Tất nhiên là chúng tôi được giao cho những nhiệm vụ nhẹ nhứt và ít nguy hiểm nhứt. Tuy vậy, đó cũng là một dịp tốt để thu thập  những kinh nghiệm căn bản cho đời lính trận : từ đội hình di chuyển cho đến cách bố trí theo từng địa thế, cả việc đào hầm hố phòng thủ. Đây là y’ đẹp của Thiếu Tá Đối mà sau này, khi đã không còn “ khớp “ vì tánh nghiêm nghị của ông và khi có dịp tiếp xúc riêng với ông, chúng tôi mới biết.

“ Mấy em sẽ là cấp chỉ huy, sẽ như tôi sau này, có khi còn khá hơn nhiều. Lo cho mấy em đ ư ợc cái gì hay cái đó…”  Thiếu Tá Dụng Văn Đối đã nói với chúng tôi sau một đêm tiếp xúc với vài gia đình thân nhân  và “ Nghe mấy đứa sinh viên hát ‘ nhạc thính phòng ‘ ..” ngay trong xe cứu thương đậu cạnh hội trường hôm thứ bảy 09 -12-1972 . “ Nhạc thính phòng “ mà ông nói, là những bài tình ca thời thượng và vài bản nhạc Pháp, Mỹ được ưa chuộng lúc bấy giờ, cùng với ngón đàn classique của một bạn Kha Sinh từ Sài Gòn ra thăm chúng tôi. “…Lo được gì cho mấy em “ còn bao gồm chuyến đi suối Vĩnh Hảo tại Tuy Phong ngay ngày hôm sau, Chúa nhựt 10-12-1972 , một chuyến đi mang nhiều kỷ niệm cho mọi người vì có dịp đến tắm ngay tại nơi sản xuất nước khoáng của cả nước. Một tuần sau đó, là buổi họp mặt hàn huyên với một số gia đình thân nhân khác và lần này là màn văn nghệ bỏ túi với đàn thùng và trống ngay trong hội tr ư ờng tr ư ớc khi ra Phan Rí Cửa xem Đại Nhạc Hội do nghệ sĩ Ngọc Phu tổ chức. Một chuyện khác mà Thiếu Tá Đối đã “ làm đ ư ợc gì cho mấy em thì tôi sẽ làm…” là việc cấp phép cho cả toán thay nhau về thăm nhà nhân dịp lễ Giáng Sinh năm đó mặc dù mới một hai tuần tr ư ớc, đa số đã gặp cha mẹ và anh, chị em.

Mặc dù chỉ sinh hoạt với nhau đúng 2 tháng, nh ư ng kỷ niệm về những ngày công tác tại Bình Thuận luôn là nguồn hoài cảm thật dễ th ươ ng mỗi khi đông về. Nếu không có tai nạn “ giao thông “ ( kết luận của Quân Cảnh Sông Mao ) ngay tại đầu dốc L ươ ng S ơ n của xã Chợ Lầu ( ngày 19-01-1973 ) thì những ngày công tác CTCT tại quận Hòa Đa quả là tuyệt vời về mọi mặt. Chỉ đáng buồn là khi chiếc L19 xuống thật thấp để quan sát và bảo vệ đoàn GMC lại bị trục trắc máy móc bất ngờ nên l ư ớt ngay trên chiếc xe của Toán Hòa Đa và móc cánh phải vào mui rồi lật úp bên vệ đ ư ờng. Chiếc GMC vô sự, nh ư ng năm Alpha bị “ vớt đầu “ . Một bạn qua đời vài ngày sau đó ( SVSQ Võ Công Lý ). Bốn người còn lại ( các SVSQ Ngô Quốc Thắng, Nguyễn Duy Tân, Nguyễn Văn Kiệt và Hoàng Trung Sơn ) cùng với người quan sát viên của L19 đều dần dà bình phục.

Để thay lời kết cho hồi ức này, chúng tôi xin thay mặt cho cả toán công tác chân thành gởi đến toàn thể Quân, Cán, Chính của Tỉnh Bình Thuận nói chung và của Quận kiêm Chi Khu Hòa Đa nói riêng lòng trân trọng và sự biết ơ n sâu xa về tấm thạnh tình mà qúy vị đã dành cho chúng tôi lúc bấy giờ. Nhân đây, chúng tôi cũng xin cảm ơ n gia đình ng ư ời chủ câu lạc bộ trong quận đ ư ờng Hòa Đa đã “ can đảm “  cho cả toán công tác ghi sổ đến ngày cuối cùng mặc dù số nợ ( của mỗi người chúng tôi ) đó bằng nửa tháng lương Trung Sĩ, gom lại tổng số của cả 20 người thì đó là một món tiền không phải nhỏ mà mãi 2 tuần sau ngày rời Hòa Đa chúng tôi mới hoàn trả lại được.

HUY VĂN